Âu Dương Chính Lan Tác Giả:Ưu Đàm Hoa -- o -- Hồi 8 Thượng kinh tam thứ phùng mai phục Hiền phụ tâm trung duy hữu phu Nguồn:vnthuquan Mời đọc Đầu tháng mười, Quí Thành Lâm đột nhiên đến Âu Dương gia trang tìm Chính Lan. Chàng vui vẻ hỏi: - Có việc gì mà Quí đại ca lại lo lắng như vậy? Chính Lan đã kết nghĩa chi lan với Thành Lâm từ mấy tháng trước. Họ Quí nghiêm giọng: - Sùng Trinh hoàng đế đang lâm trọng bệnh. Quan bố chánh sứ ty Tích Giang trước đây được tiên hoàng ban cho một nhánh thiên niên Hà Thủ Ô. Nay được lệnh cho quân hộ tống sứ đem về Bắc Kinh để ngài ngự dụng. Kỳ trân này là vật mà khách võ lâm hằng mơ ước. Vì vậy, sẽ khó mà thoát khỏi cảnh chặn đường cướp đoạt. Lâm Bố Chánh là bạn thâm giao của Quí gia trang nên biết rõ uy danh và bản lĩnh của hiền đệ. Ông ta hết lời cầu khẩn, nhờ ta năn nỉ hiền đệ nhận trách nhiệm mang bảo vật đi Bắc Kinh, giữa tháng mười phải đến nơi. Họ Quí chỉ nói đến đấy và nhìn Chính Lan với cặp mắt thiết tha. Chàng cười hỏi: - Phải chăng Lâm bố chánh là người giúp đỡ cho việc kinh doanh của đại ca? Thành Lâm thú nhận: - Đúng vậy, lão mà mất đầu thì ta cũng gặp khó khăn với quan mới. Chính Lan nghiêm giọng: - Vì đại ca, tiểu đệ xin nhận lời. Thành Lâm cảm động nói: - Ta lại chịu ân hiền đệ lần nữa rồi. Dường như biết trước Chính Lan không từ chối, họ Quí đã mang sẵn bảo vật trong người. Gã móc ra một hộp dài độ gang tay, bề ngang hai lóng, trao cho chàng. Chính Lan thấy không có niêm phong, mở ra xem thử. Chỉ thấy một khúc rễ cây sần sùi, đen nhánh, to bằng ngón chân cái, chàng bật cười: - Vật này quí giá ở chỗ nào nhỉ? Thi Mạn đỡ lấy ngửi thử, rồi tấm tắc khen: - Tướng công không biết đó thôi, đoạn rễ cây này có thể làm tăng hai mươi năm công lực đấy. Chính Lan giật mình, suy nghĩ một lúc rồi hỏi Thành Lâm: - Quí đại ca, việc quân cơ làm sao người ngoài biết được mà phải lo sợ? Thành Lâm bực tức nói: - Chỉ tại gã quan khâm sai kênh kiệu, bắt Lâm bố chánh phải bày hương án trước cửa dinh rồi oang oang đọc to thánh chỉ. Vì vậy, còn gì là bí mật nữa? Hỏa chân nhân cười nhạt: - Vậy thì ta cứ trao cho tên thái giám dở hơi ấy một hộp thiên niên Hà Thủ Ô giả, để hắn nếm mùi đau khổ, và đánh lạc hướng bọn tà ma? Thi Mạn nói ngay: - Lão gia nói chí phải, trong rừng quanh nhà cũng có Hà Thủ Ô, tiểu nữ nhuộm đen chúng đi là xong. Chính Lan tán thành, giữ Thành Lâm ở lại uống rượu. Chỉ ba khắc sau Thi Mạn đã bào chế xong vật thế thân. Nàng tươi cười bảo: - Đây là thập niên Hà Thủ Ô, được nhuộm bằng Tam Thất nên rất khó phân biệt. Quí đại ca cứ yên tâm mang về báo lại kế hoạch với quan bố chánh. Thành Lâm cười khà khà: - Phen này gã thái giám kia sẽ khó toàn mạng. Họ Quí trao lại cho Chính Lan một tấu chương được niêm kín: - Trong biểu này nói rõ rằng hiền đệ được cử mang bảo vật về kinh, ta đã đọc qua rồi, cứ yên tâm. Khách đi rồi, Chu Điện Kiệt mới nói: - Sao Lâm bố chánh không giao thẳng báu vật cho khâm sứ, nếu mất, lão ấy chịu trách nhiệm? Tiêu lão gia cha của Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như là một tri huyện về hưu nên hiểu rõ luật lệ, ông khề khà giải thích: - Chu huynh không hiểu đâu. Vật này có quan hệ đến tính mạng của long nhan nên cả khâm sứ lẫn quan bố chánh đều phải đưa đầu ra gánh vác. Chính vì vậy lão ta mới phải nhờ đến Âu Dương hiền tế. Hỏa chân nhân bỗng nói: - Phải chi bần đạo có một được một ít kỳ dược này thì hay biết mấy? Thêm vài mươi dược vị nữa là chế thành Hà Sâm đan tráng dương ích thọ, lưu giữ tuổi xuân. Các mỹ nhân nghe nói đến diệu dụng trường xuân, lòng hoan hỉ phi thường. Tiểu Linh Thố cười bảo: - Nếu trong tấu chương kia không ghi rõ kích thước kỳ trân thì chúng ta cứ cắt lấy một đoạn gọi là tự thưởng công. Tiêu lão gia mỉm cười: - Bóc ra xem đâu có khó gì? Chỉ cần hơ nóng phía dưới, xi niêm mềm ra, rời khỏi giấy ngay. Thấy các mỹ nhân quá tha thiết, Chính Lan không nỡ ngăn cản. Chàng cũng biết Sùng Trinh chẳng thể dùng một lúc hết nhánh thiên niên Hà Thủ Ô này. Kính Hồ Tiên Cơ nhận trách nhiệm mở tấu chương ra. Nàng xem qua, mừng rỡ nói: - Tướng công, trong này không hề ghi rõ kích thước hay trọng lượng gì cả. Chính Lan mỉm cười bảo chân nhân: - Vậy nhạc phụ cần bao nhiêu cứ việc cắt. Tây Môn Nhỉ chẳng hề khách sáo, cắt ngay một đoạn chừng hơn lóng tay. Lão vui vẻ nói: - Quí lão thái mà được uống vài viên Hà Sâm đan sẽ sống lâu trăm tuổi. Thành Lâm có biết cũng chẳng dám trách bọn ta. ° ° ° Sáng ngày hai mươi tháng chín, Chính Lan, Thi Mạn và Tố Bình lên đường đi Bắc Kinh. Tử Quỳnh, Uyển Như, Mỹ Kỳ đều cấn thai nên không được theo. Việc cưỡi ngựa gần ngàn dặm không tốt cho người thai phụ. Chính Lan giờ đây đã mập mạp hơn trước, trông chàng càng thêm dễ mến. Vẻ nhân hậu, quân tử hiện rõ trên gương mặt và ánh mắt hiền hòa. Thi Mạn và Tố Bình có võ công cao nhất trong sáu mỹ nhân, vì vậy Chính Lan rất yên lòng cho họ theo. Thi Mạn đã bới tóc theo kiểu Hán để khỏi gây sự chú ý của thiên hạ. Gió thu se lạnh, cảnh vật nhuốm vẻ tiêu điều, hàng ngô đồng bên bờ sông Trường giang đã rụng lá. Chính Lan hứng khởi ngâm nga bài từ Thủy long ngâm của Tân Khí Tật: “Trời nam ngàn dặm thanh thu Sông chảy về đông trông mù mịt Núi ngang tầm mắt Ngọc trâm xoắn ốc Lắng chìm sầu hận Nắng chiếm lầu cao Tiếng nhạn thống thiết Giang Nam du tử Chừ nhìn lại kiếm sắc…” Ở tuổi trung niên, Tân Khí Tật đến Nam Kinh, cảm khái trước cảnh sắc ảm đạm của trời thu nên làm bài từ này. Thơ của ông hay ở chỗ cảm hứng ngẫu nhiên và bộc lộ tâm tình sâu xa, hào hùng, phóng túng của một chí sĩ ái quốc. Tây Môn Tố Bình cười khúc khích: - Cương thổ vững bền, giang san không có ngoại xâm, cớ gì tướng công lại ngâm bài ấy? Chính Lan nghiêm giọng: - Nay ở phía bắc, quân Mãn Châu ngày càng hùng mạnh, trước sau gì cũng vượt trường thành. Triều đình nhà Minh nhu nhược, binh quyền nằm cả trong tay thái giám Ngụy Trung Hiền, lão là đầu bếp của thái hậu và là bạn thân của nhũ mẫu tiên hoàng. Chết nỗi Minh Quang Tông chỉ ham mê nghề thợ mộc nên mới giao phó cả cho họ Ngụy. Trung Hiền nắm trong tay ba cơ quan mật vụ Đông Xưởng, Tây Xưởng, Nội Xưởng tha hồ hãm hại trung lương, cướp bóc của dân. Chính trị đổ nát như vậy, chẳng phải là điềm sắp mất nước hay sao? Liễu Thi Mạn nghe lời chàng thống thiết và bi phẫn, bất giác đồng tình nói ngay: - Vậy phen này đến Bắc Kinh chúng ta giết quách lão cẩu thái giám Ngụy Trung Hiền để cứu nguy xã tắc. Chính Lan quắc mắt: - Quả thực lòng ta cũng định như thế. Minh Tư Tông Sùng Trinh mới lên ngôi, cũng có ý tiêu diệt Ngụy Trung Hiền mà không đủ sức. Chúng ta sẽ giúp ông một tay. Tố Bình nhìn trượng phu với vẻ ngưỡng mộ vô bờ. Nàng hân hoan nói: - Không ngờ tướng công lại nặng lòng với xã tắc như vậy. Nhưng sao chàng lại biết rõ nội tình triều đình? Chính Lan bùi ngùi đáp: - Tiêu nhạc phụ chính là người của đảng Đông Lâm vừa bị họ Ngụy tiêu diệt mấy năm trước. Ông thoát chết nhờ sớm từ quan, và đã kể hết cho ta nghe. Vì vậy, ta mới nhận lời đưa kỳ trân đi Bắc Kinh. Ta chọn hai nàng theo là muốn có người trợ giúp, cao thủ dưới trướng Ngụy Trung Hiền đông như kiến, một mình ta khó mà giết được lão. Thi Mạn vui vẻ nói: - Cảm tạ tướng công đã tin yêu, bọn thiếp sẽ sát cánh với chàng, dẫu hiểm nguy cũng chẳng từ nan. Tố Bình mỉm cười: - Trước mắt phải đến cho được Bắc Kinh. Thiếp nhận ra có khá nhiều người bám theo chúng ta rồi đấy. Lúc này bọn Chính Lan ở cách Nam Kinh sáu chục dặm. Trời cũng đã trưa, ba người ghé vào phạn điếm dùng cơm. Lát sau có mười mấy kỵ sĩ vào theo, nón rộng vành chụp sát mí mắt để che dấu dung mạo. Thanh danh của Hồng Nhất Điểm đại hiệp lừng lẫy võ lâm, chẳng phải ai cũng dám chạm đến. Có thể họ chỉ là những người hiếu sự, biết chuyện nên đi theo để được chứng kiến những trận đấu long trời lở đất. Ăn tối xong, phu thê Chính Lan tiếp tục khởi hành. Chàng cau mày bảo: - Ta vừa nghĩ đến một điều, đó là việc Ngụy Trung Hiền sẽ cho người chặn đường đoạt bảo. Lão biết Sùng Trinh hoàng đế không ưa mình, tất cũng chẳng muốn thánh hoàng khỏi bệnh. Xem ra oai danh của Hồng Nhất Điểm không đủ để dọa khiếp bọn nha trảo của Đông Xưởng, Tây Xưởng và Nội Xưởng. Thi Mạn mỉm cười: - Chưa chắc chúng đã đoán ra kế “ám độ trần thương” của bọn ta. Có thể chúng sẽ chặn đường đoàn khâm sứ trước. Hi vọng chúng không phát hiện được đoạn Hà Thủ Ô kia là vật giả. Chính Lan nói với giọng sắc lạnh: - Dẫu sao cũng phải hết sức cảnh giác và xuất thủ thật nặng tay. Vì giang sơn Đại Minh, chúng ta đành bất kể thủ đoạn! Tố Bình đắc ý đáp: - Tướng công chớ lo, mười trái Đảo Thiên thần đạn và bầy cổ độc của chị em thiếp đã sẵn sàng cả rồi. Chính Lan nhớ đến cái chết của Phú Quí hội chủ Hà Lăng, buột miệng khen: - Xem ra công phu cổ độc của Mạn muội còn lợi hại hơn cả tuyệt kỹ Huyết Tuyến Nhất Điểm Hồng của ta. Vô hình vô ảnh như vậy ai mà chống nổi? Thi Mạn lắc đầu: - Tại tướng công không biết đấy thôi, những người có trên bốn mươi năm tu vi đều có thể dùng lửa tam muội tiêu diệt cổ trùng. Hiện tượng bế tắc chân khí chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian rất ngắn và không giết được các đại cao thủ. Vì vậy, làm sao sánh được với tuyệt học của ngũ sư bá? Chính Lan đã hiểu, thầm hài lòng rằng công lao rèn luyện của mình không đến nỗi uổng phí. Chàng đã khổ luyện mười hai năm và nhận ba mươi năm công lực của ân sư mới thi triển được thủ pháp Nhất Điểm Hồng, nếu không bằng một con vật bé nhỏ như hạt bụi kia quả là đau lòng. Ba ngày sau, bọn Chính Lan đến bờ sông Hoài. Từ bến đò này, dòng Hoài giang tiếp tục xuôi đông thêm trăm dặm nữa là đổ vào Hồng Trạch hồ. Vào thời Nam Tống. Sau một trận lụt khủng khiếp, sông Hoàng Hà đổi dòng. Thay vì chảy vào vịnh Bột Hải, phía bắc bán đảo Sơn Đông, nó lại vươn xuống phía nam, chiếm lấy cửa của sông Hoài, cách cửa sông cũ đến gần ngàn dặm. Từ đó, Hoài giang và Hoàng hà có chung đoạn hạ lưu. Tai họa này đã khiến lê thứ thời ấy điêu đứng, lầm than. Đò ngang sang đến, bọn Chính Lan đưa ngựa lên. Đám lục lâm bám theo cũng đã đến nơi nhưng không chịu lên đò, chỉ có đám khách thương hồ và lương dân là bạn đồng hành với Chính Lan. Chàng thấy vậy cau mày suy nghĩ rồi bảo hai nàng: - Dường như đám cô hồn kia đã đánh hơi thấy hiểm nguy nên không chịu đi chung đò với chúng ta. Hai nàng hãy khoác bọc hành lý vào vai và chuẩn bị đối phó. Đò rời bến, đi sang bờ bắc. Bọn Chính Lan chia nhau đứng ở hai mạn thuyền, chăm chú quan sát mặt sông. Nhờ đã cảnh giác nên khi đò còn cách bờ bên kia chừng mười mấy trượng, Chính Lan nhận thấy có những tiếng động lạ từ sườn bên dưới truyền vào lòng bàn tay, chàng đã vịn vào thành gỗ để nghe ngóng. Chính Lan cười nhạt, ném một trái Đảo Thiên thần đạn xuống nước. Hỏa khí của Tây Môn Nhỉ quả danh bất hư truyền, nổ ngay dưới nước, tạo thành đợt sóng dữ dội, khiến đò chòng chành, lắc lư. Tiếng nổ khiến khách trên đò sợ hãi kêu cha gọi mẹ. Vài lát sau, có hơn mười xác người nổi lên. Bọn thủy tặc này đang đục đáy thuyền, bị sức ép giết chết. Chính Lan nghiêm giọng bảo các trạo phu: - Chư vị cứ an tâm chèo mau vào bờ, để ta đối phó với bọn cướp sông này. Bốn hán tử sợ hãi vận toàn lực chèo thật mạnh. Còn cách bờ hai trượng, Chính Lan đã như cánh chim bằng bay thẳng lên bến, lướt nhanh lục soát những bụi lau gần đấy. Bọn cung thủ mai phục lập tức buông tên nhưng thanh trường kiếm trong tay chàng đã gạt phăng tất cả. Chính Lan căm hận thủ đoạn hạ lưu của chúng nên thẳng tay tàn sát. Bảo kiếm vun vút như đạo hào quang ập đến cắm vào cơ thể, hoặc chặt phăng thủ cấp. Tiếng rên la thảm khốc vang lên và trận địa mai phục tan vỡ ngay, chúng quá khiếp đảm trước đường kiếm tuyệt luân nên bỏ chạy cả. Chính Lan chẳng thèm đuổi theo quay lại đón nương tử. Tố Bình giận dữ nói ngay: - Tướng công, bọn này chắc là thủ hạ của Hồng hồ thập bát trại, địa bàn này là của bọn chúng. Chính Lan gật đầu: - Ta biết, nhưng không hiểu bọn đầu lĩnh trốn đâu cả? Ba người lên ngựa, kiếm tuốt trần để đề phòng phục binh. Đoạn đường này xuyên qua một khu rừng liễu. Nhưng có lẽ bọn thủy tặc chỉ sở trường trên sông nước lên không dám chặn đường lần nữa. Lại bốn ngày trôi qua, lộ trình vẫn an toàn, bọn Chính Lan chỉ còn cách thành Từ Châu chừng bảy chục dặm. Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình lo lắng nhắc nhở: - Tướng công, Từ Châu là đất của Đào Hoa cung, có khi nào Thang Chí Quân trở mặt chặn đường chúng ta hay không? Chính Lan tư lự đáp: - Ta cho rằng nếu Đào Hoa cung chủ biết tin ta áp tải kỳ trân tất sẽ không bỏ qua cơ hội hai mươi năm công lực sẽ giúp lão trở thành vô địch. Liễu Thi Mạn ngập ngừng: - Nhưng làm sao phe hắc đạo lại đoán ra việc chúng ta đưa thiên niên Hà Thủ Ô hồi kinh? Chính Lan trầm ngâm: - Có thể chính Ngụy Trung Hiền đã biết quan hệ giữa Lâm bố chánh với Quí gia trang, và cả ân tình của ta và họ Quí. Việc khâm sứ bắt bày hương án ngay cửa dinh và đọc thánh chỉ thật lớn cũng là theo ý của Ngụy thái giám. Mưu kế ấy đã bức bách Lâm bố chánh phải nhờ ta âm thầm hộ tống kỳ trân về Bắc Kinh. Một mặt, họ Ngụy tiết lộ tin này cho đám tà ma được biết, hầu thi hành kế tá đao sát nhân. Vì vậy, nếu Đào Hoa cung chủ xuất hiện thì cũng chẳng có gì lạ. Tố Bình tán thành: - Tướng công luận việc rất chính xác. Mật vụ của Ngụy Trung Hiền có mặt khắp nơi, tất không thể không biết về hành vi của Hồng Nhất Điểm cao thủ lẫy lừng của võ lâm. Chính Lan thở dài: - Ta chỉ lo cho hai nàng thôi. Thi Mạn dựng ngược đôi mày liễu: - Bọn thiếp tuy là nữ nhi nhưng cũng biết chuyện giang sơn là hệ trọng. Phen này dẫu chết cũng cố giúp tướng công hoàn thành trọng trách. Chính Lan nghe hào khí sục sôi bật cười ha hả: - Hảo anh thơ! Ta mừng có được nương tử như các nàng. Thêm hai dặm nữa, đường quan đạo xuyên qua một vùng gò đống lởm chởm, lau lách mọc đầy. Nơi đây mà đặt phục binh thì rất tuyệt. Liễu Thi Mạn nghiêm giọng: - Xin tướng công chậm lại, thiếp sẽ cho cổ trùng đi trước dọ thám xem sao? Chính Lan vẫn lo lắng câu “minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng” nên mừng rỡ gật đầu. Thi Mạn lâm râm niệm chú, lát sau biến sắc nói: - Tướng công, hai bên đường có rất nhiều người, cách chúng ta chừng bốn mươi trượng. Chính Lan trầm giọng: - Đoạn đường hiểm yếu này chỉ dài độ trăm trượng. Chúng ta cứ tiến lên, khi đến gần bất ngờ tung Đảo Thiên thần đạn thị uy rồi phi nhanh. Chúng không biết bọn ta đã phát hiện nên sẽ hoảng loạn. Ba người vẫn giữ nước kiệu, đi thẳng đến ổ mai phục. Cổ trùng báo hiệu kẻ địch ngay trước mặt, Thi Mạn khẽ ho lên. Đồng thời, nàng và Tố Bình tung hai trái thần đạn vào vệ đường trước mặt. Hỏa khí nổ vang trời, sát thương thì ít nhưng uy hiếp tinh thần bọn cung thủ và tỏa ra khói bụi mịt mù. Bọn Chính Lan thúc mạnh gót chân vào bụng ngựa, lao như tên bắn. Được vài trượng, hai nàng lại rải thêm thần đạn. Nhờ vậy, bọn Chính Lan vượt qua được đoạn mai phục một cách an toàn. Ba con tuấn mã tiếp tục phi nước đại, chạy về hướng Từ Châu. Bọn phục binh không dám đuổi theo, nhưng chỉ được mươi dặm phu thê Chính Lan đã bị chặn đường. Lần này không có cung thủ mà là chín người bịt mặt, đứng rải rác thành hàng ngang. Với cách dàn trận như thế, hỏa khí không còn tác dụng nữa. Chính Lan gò lưng, lạnh lùng hỏi: - Chư vị chặn đường bọn ta với ý gì? Không ngờ Đào Hoa cung chủ lại là kẻ phản trắc khôn lường như vậy? Lão đứng trước cười ha hả: - Nhãn quang các hạ quả là sắc bén, chính thị là bổn cung chủ đây! Như vậy, tám gã còn lại là Tây Vực Bát Hung. Họ Thang gằn giọng: - Các hạ chỉ cần trao thiên niên Hà Thủ Ô ra hai bên vẫn giữ được hòa khí như cũ, hà tất phải vì chuyện của triều đình mà uổng mạng. Chính Lan thấy phe đối phương không kéo khăn che mặt xuống, biết rằng cổ trùng sẽ không xâm nhập được, như vậy là lành ít dữ nhiều. Chàng có thể cầm chân được Đào Hoa cung chủ thì hai mỹ nhân cũng không địch lại bát hung. Nhưng Tiểu Linh Thố xảo quyệt hỏi: - Tướng công, còn tám người đứng sau lưng Đào Hoa cung chủ là ai vậy? Thi Mạn cười khanh khách: - Chắc mặt họ rất xấu xí nên mới phải bịt kín như vậy? Thực ra tám gã họ Lỗ đều có dung mạo dễ nhìn và rất oai vũ, nên không chịu để mỹ nhân chê bai. Lỗ Nhất cười dâm đãng, lột phăng khăn che mặt: - Hai nàng nhìn xem ta có hơn gã Hồng Nhất Điểm kia không? Trước sau gì gã cũng chết, hay là buông kiếm về với bọn ta cho khỏi phí uổng đời xuân sắc. Bảy gã kia cũng không chịu kém kéo khăn che mặt xuống, nhìn hai nàng với ánh mắt thèm khát, Liễu Thi Mạn nghiêng đầu nhìn từng khuôn mặt, mỉm cười duyên dáng. Bỗng nàng quát vang: - Giết! Chính Lan biết nàng đã thả cổ trùng, mừng rỡ tấn công ngay. Chàng xuất chiêu Mãn Không Tinh Hà, kiếm quang vùn vụt hàng vạn đốm hàn tinh, cuốn về phía Đào Hoa cung chủ. Sau mấy tháng phẫn chí khổ luyện, võ công Chính Lan cũng tinh thục hơn xưa. Bản thân chàng không nhận thấy nhưng Thang Chí Quân thì sinh lòng e ngại. Lão vẫn còn bị ám ảnh bởi cái chết của Phú Quí hội chủ Hà Lăng. Vì vậy, lấp tức có hai gã trong Tây Vực Bát Hung nhảy đến liên thủ cùng cung chủ, đó là Lỗ Nhị và Lỗ Tam. Chính Lan bị ba thanh trường kiếm đẩy văng ra xa và lọt vào vòng vây. Đào Hoa cung chủ có trợ thủ nên hung hãn xông vào, quyết giết cho được Chính Lan. Chàng thấy lão không chịu bỏ khăn che mặt, tất chẳng bị cổ trùng quẫy nhiễu, liền tránh mặt họ Thang, bám sát lấy hai gã Tây Vực. Cách đấy vài trượng, sáu gã còn lại trong bát hung đắc ý vây chặt hai mỹ nhân. Tố Bình tay kiếm tay chưởng, phối hợp hai pho Thái Chân kiếm pháp và Thiên Hỏa Chiếu Vân thần chưởng. Nàng là nữ nhi nên không phát huy được hết uy thế của pho chưởng pháp dương cương, chưởng kình chỉ có màu hồng nhạt. Liễu Thi Mạn tỏ ra lợi hại hơn, tay hữu thủ trường kiếm tay tả quấn kim xà. Con vật này cực kỳ linh thông, tự biết cách chiến đấu. Nó không sợ gươm đao nên chẳng ngần ngại vươn tấm thân dài ngoằng tấn công đối thủ. Tuy nhiên, hai nàng chẳng thể địch lại sáu gã Tây Vực kia. Có điều chúng đều muốn bắt sống để thỏa mãn thú tính cho nên không hạ độc thủ ngay. Sau gần trăm hiệp, Thi Mạn xác định cổ trùng đã vào đến tâm mạch đối phương, liền quát lên thánh thót: - Sát! Chính Lan biết đã đến lúc, vận toàn lực tránh chiêu của Thang Chí Quân, nhảy vào Lỗ Nhị và Lỗ Tam. Đào Hoa cung chủ lập tức bám theo, cho rằng trong lúc chàng chạm chiêu kiếm với hai gã họ Lỗ sẽ bị khựng lại, để lộ hậu tâm. Nhưng không ngờ chiêu Thu Vũ Tiêu Tiêu của Chính Lan phá tan màn kiếm quang kia rất dễ dàng và chặt phăng thủ cấp của song hung. Thân ảnh chàng tiếp tục lướt đi nên đòn tập hậu của họ Thang hụt mục tiêu. Đào Hoa cung chủ càng kinh hãi hơn khi thấy hai nữ lang cũng đã giết được bốn gã Tây Vực. Còn lại hai gã cũng đang bị Chính Lan tấn công. Chàng đã thuận đà, lao thẳng về phía họ. Chính Lan đã tính toán rất kỹ quyết giết sạch bát hung trước khi chúng kịp thố lộ ẩn tình. Chàng hóa thành luồng kiếm quang xuất chiêu Nhân Gian Như Mộng chụp lấy hai gã họ Lỗ. Chúng gào lên thảm thiết, đi theo huynh đệ xuống tuyền đài. Đào Hoa cung chủ hồn phi phách tán, quay lưng đào tẩu ngay. Chính Lan tra kiếm vào vỏ, giang tay ôm hai nàng vào lòng. Chàng tưởng rằng trận này chẳng một ai thoát chết. Ba người hân hoan lên ngựa phi nhanh đến Từ Châu. Ngày thu vốn ngắn, vầng dương đã tắt lịm, họ vào khách điếm lớn nhất thành nghỉ ngơi. Ở nơi đô hội, sầm uất này, chẳng tên ma đầu nào dám quấy nhiễu họ cả. Ngày hôm nay, nếu không nhờ hỏa khí của Tố Bình và cổ trùng của Thi Mạn, cả ba đã chẳng còn toàn mạng. Tuy nhiên, nỗi hiểm nguy vẫn còn ở phía trước, cảm giác tử vong càng khiến họ gần gũi nhau hơn, như sợ không còn có dịp nữa. ° ° ° Sáng hôm sau, bọn Chính Lan rời Từ Châu, tiếp tục đi lên hướng bắc. Kể từ đây, đường quan đạo chạy song song với Đại Vận hà. Tố Bình nhìn những cánh buồm xuôi ngược trên dòng kinh vĩ đại, vui vẻ hỏi: - Tướng công, không hiểu giờ này tình hình lão khâm sứ thế nào nhỉ? Chính Lan cười đáp: - Nếu lão ta là tay chân của Ngụy Trung Hiền thì sẽ bình an vô sự, ngược lại sẽ phải khốn đốn vì thủy tặc. Cuối tháng chín, ba người đã đi được thêm sáu trăm dặm mà không gặp trở ngại nào. Trưa hai mươi tám, họ đến vùng sơn địa dưới chân núi Thái sơn. Ba người say mê ngắm ngọn núi hùng vĩ nhất Trung Hoa. Đông Nhạc Thái sơn chỉ cao gần bốn trăm bảy chục trượng nhưng lại đứng đầu Ngũ Nhạc. Đồng bằng sông Hoàng hà chính là cái nôi của nước Trung Hoa. Vì vậy, suốt các triều đại Hạ, Thương, Chu đã có bảy mươi hai vị hoàng đế đến đây để tế trời. Nghi lễ này được tiếp tục cho đến tận đời nhà Thanh. Tất nhiên, ngoài sự linh thiêng, Thái sơn còn nhiều vẻ đẹp kỳ diệu khác. Nhưng tác giả xin hẹn hồi sau vì phu thê Chính Lan đang gặp nạn. Lần này, cường địch không hề mai phục mà đường hoàng tiến đến. Họ đều không cỡi ngựa chứng tỏ cư trú rất gần đây. Đó là một lão đạo sĩ tóc bạc, râu đen, mặt sáng như trăng rằm và bảy đạo nhân tuổi tứ tuần. Tuy nhiên, trên góc trái mé tả của lão đạo sĩ kia lại có một khối u tròn nhô ra, làm mất cả vẻ tiên phong đạo cốt. Đạo sĩ già tươi cười hỏi: - Bần đạo là Thái Sơn Phủ Quân, chắc công tử là Hồng Nhất Điểm đại hiệp? Chính Lan cười mát: - Đúng là tại hạ, xin hỏi đạo trưởng có việc gì cần chỉ bảo? Thái Sơn Phủ Quân nghiêm giọng: - Bần đạo có đứa tiểu đồ luyện công sai đường, cần nhánh thiên niên Hà Thủ Ô để chữa trị. Mong công tử khai ân ban cho. Bỗng Chính Lan nghe tiếng Thi Mạn truyền âm: - Tướng công, bọn đạo sĩ này luyện tà công nên cổ trùng không dám vào. Chính Lan chợt nhớ đến một nhân vật, mỉm cười hỏi: - Phải chăng đạo trưởng chính là Độc Giác Thần Ma đất Quí Châu? Thái Sơn Phủ Quân biến sắc, không còn giữ vẻ hòa nhã giả tạo nữa. Lão bật cười ghê rợn: - Bần đạo đã không muốn nhắc đến món nợ cũ với sư phụ ngươi là Hoàng Hạc Tú Sĩ, chẳng ngờ ngươi lại đoán ra lai lịch, có chết cũng là đáng kiếp. Hơn ba mươi năm trước, Độc Giác Thấn Ma giết người như ngóe, bị Ngũ Di Nghiệp tìm đến hỏi tội. Lão khôn hồn không ló mặt ra, mở cửa sau đào tẩu và biệt tăm cho đến bây giờ. Chính Lan cười nhạt: - Xem ra tôn giá ẩn mặt mấy chục năm, chắc đã luyện thành thần công tuyệt thế, nên mới dám mở miệng hăm dọa đồ đệ của Hoàng Hạc Tú Sĩ? Phủ Quân đắc ý: - Đúng thế! Năm xưa bần đạo chạy đến núi Thái sơn, tình cờ bắt được pho bí kíp khoáng cổ tuyệt kim, luyện thành kiếm thuật vô thượng. Nay bần đạo dùng ngươi làm vật thử nghiệm đầu tiên cũng là hợp lẽ báo ứng của trời đất. Bảy gã đạo sĩ trung niên dương mắt nhìn hai mỹ nhân, xúm lại chỉ trỏ bàn tán rất khả ố. Họ không ngờ tử thần đã nở nụ cười bằng đôi môi anh đào của nữ lang mảnh khảnh kia. Tố Bình ngồi trên mình ngựa nên có thể ném trái Đảo Thiên thần đạn thật mạnh vào mảnh đất cứng dưới chân bọn đạo nhân. Hỏa khí nổ vang, xé nát da thịt và hất tung bảy xác người lên. Thái Sơn Phủ Quân chưa kịp đau lòng thương tiếc đồ đệ đã bị Chính Lan tấn công, cả hai mỹ nhân cũng xông vào để kết liễu trận chiến cho mau chóng. Biết đâu đối phương còn có quân tiếp viện? Nhưng không ngờ bản lãnh của Phủ Quân cao thâm vô lượng. Lão gầm lên như thú dữ, đánh bạt cả ba thanh trường kiếm và ập vào Tố Bình, quyết giết nàng trước để trả thù cho đệ tử. Kiếm chiêu uy mãnh tuyệt luân và nhanh như chớp giật. Chính Lan kinh hãi vội xuất chiêu Đào Hoa Lưu Thủy, đánh vào mé hữu Phủ Quân, Thi Mạn cũng phóng kim xà vào thân dưới lão ác ma để cản đường tiến. Thái Sơn Phủ Quân sinh trưởng ở Quí Châu nên đâu lạ gì Hồng Quan Kim Xà, phất tay áo đánh bật con vật ra và vẫn tiếp tục tiến lên. Chính Lan không phá được màn kiếm quang, và nghe tay tê chồn bèn xạ thêm một đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng vào mặt đối phương. Mũi tên máu kia đã khiến Phủ Quân phải khựng lại, nghiêng đầu né tránh. Nhờ vậy, đường kiếm của lão hơi chậm lại và Tố Bình thoát chết. Nàng chỉ bị mũi kiếm đâm vào bắp tay bên trái. Chính Lan ước lượng bản lãnh Thái Sơn Phủ Quân còn cao hơn Phú Quí hội chủ Hà Lăng và Đào Hoa cung chủ vài bậc, đành phải dùng lối đánh đổi mạng để đối phó. Lúc này Thi Mạn đã kéo Tố Bình nhảy ra xa để băng bó vết thương. Chính Lan vung kiếm xuất chiêu Thiên Địa Bất Nhân.(7)Kiếm vừa chạm nhau chàng đã xạ liền một đạo Nhất Điểm Hồng. Vì phải dồn bốn thành công lực vào tay tả nên đường kiếm yếu ớt, bị đánh bạt ra ngay, đồng thời Chính Lan nghe ngực phải đau nhói. Ngược lại, trán Phủ Quân cũng trúng đòn, không thủng xương đầu nhưng cũng rách da và đau điếng. Lão thầm khiếp sợ vì nếu trúng vào mắt thì xong đời. Phần Chính Lan biết mình đã gãy một rẽ xương sườn nhưng vẫn kiên dũng ôm kiếm lao vào. Thái Sơn Phủ Quân không dám đổi mạng đành phải đổi đấu pháp. Lão cẩn trọng từng chiêu, chẳng tính đến chuyện gấp rút lấy mạng đối phương nữa. Với công lực thâm hậu và kiếm pháp linh diệu hơn hẳn, trước sau gì lão cũng giết được chàng, hà tất phải liều? Do đó, Chính Lan dễ dàng cầm cự thêm trăm chiêu nữa. Liễu Thi Mạn đã băng bó cho Tố Bình xong, xách kiếm nhảy vào hỗ trợ cho trượng phu. Nàng khôn ngoan dùng lối du đấu, chập chờn ở vòng ngoài, thỉnh thoảng tập kích một chiêu. Thái Sơn Phủ Quân không hề bối rối, thản nhiên vung tả chưởng đánh bật nàng ra. Chưởng kình nặng như búa bổ nên Thi Mạn không chịu nổi, chỉ sau năm lần va chạm, đã hộc máu tươi, bỏ cuộc. Chính Lan thấy lão ác đạo công lực quá cao thâm, biết khó thoát chết liền quát vang: - Hai nàng mau rời khỏi chốn này ngay. Tố Bình bật khóc: - Phu thê đồng mệnh, bọn thiếp nguyện chết theo chàng. Hai người đứng nhìn cuộc tử đấu mà rơi lệ. Chính Lan đã trúng đến tám vết kiếm thương, máu nhuộm đỏ thân hình. Chàng vẫn kiên cường lăn xả vào, chẳng kể tử sinh. Bỗng Thái Sơn Phủ Quân tung mình nhảy lùi ra hai trượng. Chính Lan đã kiệt lực nên chẳng đuổi theo, đứng lại điểm huyệt chỉ huyết. Phủ Quân ngửa cổ cười vang: - Chính Lan! Đã đến lúc kết thúc rồi đấy. Ta sẽ dùng một chiêu tuyệt kiếm để đưa ngươi về chốn suối vàng. Nếu sau chiêu này mà ngươi vẫn còn sống, bần đạo hứa sẽ bỏ đi ngay. Chính Lan cười nhạt: - Được! Xuất chiêu đi. Thi Mạn và Tố Bình hồi hộp theo dõi. Họ hy vọng Chính Lan sẽ qua được chiêu kiếm cuối cùng này. Nếu không, họ sẽ tự sát chết theo chàng. Chính Lan dồn hết toàn lực vào thân kiếm, chỉ xéo lên trời chờ đợi. Đôi mắt chàng chăm chú quan sát hành động của đối phương. Thái Sơn Phủ Quân dựng kiếm trước ngực lướt đến, lúc còn cách một trượng, lão liền xuất thủ. Thanh trường kiếm của lão bỗng hóa thành chín chiếc mống ngũ sắc, bay đến như ánh sao băng. Trong lúc thập tử nhất sinh ấy, Chính Lan bỗng nhận ra đối phương đang thi triển chiêu Thiên Lý Trùng Hồng của Nam Thiên Đại Hiệp Quách Tử Hưng. Chiêu này chàng không sao luyện thành, đường kiếm yếu ớt, vô lực. Nhưng tất nhiên chàng vẫn thuộc lòng từng thức kiếm và biết rõ nhược điểm của nó. Chính Lan rung kiếm đâm bảy nhát vào màn kiếm ảnh kia. Chín đạo cầu vồng vụt tắt, đường kiếm đã bị chặn đứng. Chàng kiệt sức nên trường kiếm gãy đoạn, có điều chàng đã phá được và vẫn còn sống sót. Thi Mạn vàTố Bình vui mừng khôn xiết, chạy đến bên phu tướng. Thái Sơn Phủ Quân ngơ ngác như người gặp ma. Lát sau, lão trầm giọng hỏi: - Vì sao ngươi lại phá được chiêu Thiên Lý Trùng Hồng? Chính Lan mỉm cười: - Tại hạ chỉ gặp may thôi. Phủ Quân bực bội nói: - Bần đạo giữ lời, tha cho bọn ngươi lần này. Nhưng ba tháng sau, bần đạo sẽ đến Nam Kinh tìm ngươi. Chính Lan cười mát: - Tại hạ sẽ dọn mình để ứng hầu. Thái Sơn Phủ Quân dậm chân tức tối, bỏ đi về hướng nam, chẳng thèm nhìn đến bảy xác chết đã tan nát kia. Thi Mạn điểm huyệt chỉ huyết và cho Chính Lan uống linh đan. Nàng cười ra nước mắt: - Tướng công còn sống là tốt rồi. Chúng ta mau rời khỏi nơi này tìm chỗ dưỡng thương. Nếu gặp kẻ địch khác thì nguy to. Hai nàng đỡ Chính Lan lên ngựa. Cả ba phi mau lên hướng bắc. Được vài dặm, Chính Lan gục xuống lưng ngựa. Hai nàng vội đưa tay giữ lại rồi cho ngựa rẽ vào rừng. Cũng may là sau trận phá mai phục gần Từ Châu, đám lục lâm bám theo đã bỏ cuộc vì sợ vạ lây. Vì vậy, không ai biết bọn Chính Lan đã thọ thương và đi đâu. Ngày xưa, quanh Thái sơn rừng rậm bạt ngàn, hổ báo không thiếu. Nó là ngọn núi linh thiêng nên cấm chặt cây, đốn củi. Hai nàng theo đường mòn vào sâu ba dặm đã tới một tòa miếu cũ, nằm cạnh dòng suối nhỏ. Có nước và có nơi trú mưa là tốt lắm rồi, họ dừng ngựa, bồng Chính Lan xuống. Tòa cổ miếu này được xây bằng đá núi nên vẫn còn vững chắc. Trên đầu đắp nổi ba chữ “Thần Hổ miếu.” Có lẽ bọn thợ săn đã dựng nên miếu này để hối lộ bọn mãnh hổ. Thi Mạn bồng Chính Lan còn Tố Bình bẻ cành lá quét sơ nền miếu, và mở toang các khung cửa sổ để xua đuổi mùi ẩm mốc. Xem ra lũ cọp dữ Thái sơn đã không vui lòng với những lễ vật nhỏ nhoi nên tiếp tục sát hại phường săn khiến họ chán nản chẳng lui tới cúng tế nữa. Như để xác nhận điều này, tiếng hổ gầm vang lên rất gần, Thi Mạn đặt Chính Lan xuống sàn gạch, nói với Hồng Quan Kim Xà: - Hồng nhi! Ngươi ra ngoài gọi bầy rắn trong rừng đến lập vòng vây quanh miếu. Con vật linh thông kia rít nhẹ tỏ ý vâng lệnh rồi trườn ra ngoài. Nó cất đầu cao, gáy lên lanh lảnh. Lát sau, hàng ngàn con rắn độc ùn ùn kéo đến nằm im đợi lệnh. Trong này, Thi Mạn và Tố Bình nhanh tay lột sạch bộ y phục đẫm máu của phu tướng quan sát các vết thương. Tố Bình sa lệ nói: - Tướng công quả là con người bằng thép mới chịu đựng nổi tám vết thương này, và vẫn còn giải phá được chiêu kiếm cuối cùng. Thi Mạn nhìn quanh, phát hiện trên án thờ tượng thần hổ có một chiếc thau bằng đồng. Vật này chắc dùng để đựng thịt cúng. Nàng mừng rỡ lấy xuống, chạy ra suối rửa sạch và múc nước đem vào. Hai nàng chẻ ngay chiếc hương án bằng gỗ ra làm củi, nhóm đống lửa sưởi ấm và nấu nước. Họ vừa khóc vừa rửa vết thương và lau mình cho Chính Lan. Chàng bị chặt gãy bốn rẽ xương ngực và bốn vết còn lại ở phần mềm như bụng đùi. Băng bó xong xuôi mà Chính Lan vẫn mê man, người nóng như lửa. Chàng đã mất máu quá nhiều và vết thương hành cho phát sốt. Tố Bình tình cờ nhìn thấy chiếc hộp vàng đựng thiên niên Hà Thủ Ô, cầm lấy bảo Thi Mạn: - Hiền muội! Đây là vật duy nhất có thể cứu được tướng công. Nếu chàng mạng vong thì nó cũng chẳng đến được Bắc Kinh. Hay là chúng ta dùng để cứu chàng trước đã? Nếu tướng công trách mắng, ta xin chịu hết. Thi Mạn mỉm cười: - Tiểu muội cũng có ý ấy, việc trị bệnh cho hoàng đế chỉ cần một lát mỏng cũng đủ. Nhân dịp này, tiểu muội sẽ nấu cho tướng công món Thất Xà Hà Thủ Ô, không những cứu được mạng mà còn tăng cường công lực nữa. Bình thư nấu nước sẵn đi, tiểu muội ra ngoại chọn rắn. Nói xong, nàng cắt ngay một lát kỳ trân đút vào miệng Chính Lan. Chàng chỉ ngậm nhưng cũng đủ để bảo toàn sinh cơ. Lát sau, Thi Mạn trở về với bảy con rắn đủ màu trên tay. Nàng vui vẻ nói: - Cũng may không thiếu loại nào. Khu rừng này phong phú độc xà chẳng thua gì Miêu Cương. Nửa canh giờ sau, món thịt rắn nấu Hà Thủ Ô ngàn năm đã xong. Tố Bình đỡ Chính Lan còn Thi Mạn mớm cho chàng. Vì không có chén, muống gì cả, đành ngậm những hớp canh thuốc quí giá kia, đưa vào miệng Chính Lan. Tố Bình khúc khích cười: - Ôi chao! Trông thật là tình tứ! Thi Mạn cố mớm cho xong ngụm thuốc cuối cùng rồi đỏ mặt trách Tố Bình: - Bình thư ác quá, tiểu muội sém chết vì sặc. Hai nàng đặt Chính Lan nằm xuống, nhẹ nhàng xoa bóp toàn thân. Dần dần, mạch chàng ổn định lại, hơi thở đều đặn. Thi Mạn mừng rỡ nói: - Kỳ trân đã phát huy diệu dụng, chàng sẽ ngủ rất lâu. Chị em ta có thể yên tâm tắm gội, ăn uống được rồi. Họ kéo nhau ra suối nước cạnh miếu. Thi Mạn thản nhiên trút sạch xiêm y, chẳng chừa lại mảnh vải nào. Nàng cười bảo: - Chung quanh đây là vòng vây của hàng vạn độc xà, Bình thư còn e ngại gì nữa? Tố Bình đỏ mặt, ngượng ngùng noi gương Thi Mạn. Hai thân hình nuột nà, khiêu gợi kia chìm hết trong làn nước trong vắt vì Tố Bình bị thương ở vai. Thi Mạn giúp nàng gột rửa cơ thể, tinh nghịch vuốt ve đôi nhũ phong mơn mởn. Tố Bình rùng mình nhột nhạt, cười khanh khách, trả đũa ngay. Nước suối mùa thu trong và lạnh, hai nàng chẳng dám tắm lâu, lên bờ thay y phục rồi trở lại miếu. Chính Lan vẫn ngủ say, Thi Mạn gầy thêm củi vì trời đã về chiều. Ánh tà dương không xuyên qua nổi khu rừng rậm rạp. Nàng lấy thêm nước đổ vào thau đồng, hâm lại món Thất Xà Hà Thủ Ô, vui vẻ bảo Tố Bình: - Tướng công đã dùng hết tinh chất, nhưng nước thứ hai cũng rất bổ dưỡng. Chị em ta ăn hết chỗ thịt rắn này sẽ bổ ích không nhỏ. Tố Bình nhăn mặt: - Ta chẳng thể nào nuối nổi đâu. Thi Mạn giận dỗi bảo: - Bình thư không ăn tức là có ý chê tiểu muội là kẻ sơn dã man rợ đấy. Tố Bình đành chịu thua. Thi Mạn mở bọc hành lý lấy ra một gói muối lớn, tươi cười giải thích: - Đất Miêu Cương rất hiếm muối, vì vậy tiểu muội đã quen tật lúc nào cũng đem theo bên mình. Quả đúng như vậy, lãnh thổ của người Miêu rải rác từ vùng phía bắc Quảng Tây đến Quí Châu, Vân Nam và rất xa bờ biển, do đó muối quí như vàng. Tố Bình cố nén sợ hãi, cầm khúc thịt rắn chấm muối ăn thử, thì ra hương vị thơm ngọt phi thường. Hai nàng đói bụng nên chén sạch cả nước lẫn cái, nuốt luôn xác Hà Thủ Ô. Ăn xong, hai nàng nhìn nhau mỉm cười, Tố Bình bỗng lộ vẻ lo lắng: - Tướng công hồi tỉnh thế nào cũng hỏi đến kỳ trân, hiền muội tính sao? Thi Mạn cười khúc khích: - Bổn sơn nhân đã có diệu kế. Nàng mở tay nải lấy ra một túi lụa, trong đó có một đoạn Hà Thủ Ô giống hệt đoạn đã đưa cho Quí Thành Lâm. Nàng cười bảo: - Tiểu muội tiện tay làm đến hai khúc, định bụng sẽ lén tướng công tráo lấy nhánh thực, hy vọng bọn thái y không nhận ra. Tướng công mấy phen thua thiệt bọn tà ma cũng chỉ vì thiếu công lực. Chàng mà có được kỳ trân này thì sẽ chẳng còn phải sợ ai nữa? Tố Bình nhíu mày: - Nhưng lẽ nào quan thái y lại không phân biệt được? Thi Mạn xua tay, lấy ra thêm hai lát nữa, ranh mãnh nói: - Đây là hai miếng thực, chỉ cần dán vào đầu của đoạn giả là xong. Thánh thượng là người yếu đuối, cơ thể không có chân khí nên mỗi lần dùng chỉ được một miếng rất mỏng. Khi họ cắt đến đoạn giả thì chúng ta đã cao chạy xa bay rồi. Tố Bình ngợi khen: - Ngươi quả là lắm mưu ma chước quỉ, còn hơn cả ta nữa. Đêm xuống, hai nàng đến nằm cạnh phu tướng, ôm chàng mà ngủ vùi. Sáng ra, tiếng chim rừng đánh thức Chính Lan. Chàng mở mắt, nghe cơ thể sảng khoái, các vết thương chỉ còn hơi đau nhức mà thôi. Nhận ra hai người vợ yêu đang ngủ say, chàng nhẹ nhàng gỡ vòng tay họ rời chỗ. Việc làm đầu tiên của Chính Lan là kiểm tra lại hộp vàng đựng thiên niên Hà Thủ Ô. Chàng thở phào khi thấy bảo vật vẫn còn nguyên vẹn. Có lẽ có con hổ nào đi lạc vào xà trận, bị tấn công nên gầm vang. Hai nàng thức giấc, hân hoan vấn an trượng phu: - Tướng công thấy người thế nào? Chính Lan vui vẻ đáp: - Kinh mạch thông suốt, chỉ thấy mấy rẻ xương là còn đau mà thôi. Các nàng cho ta uống loại kỳ dược nào vậy? Thi Mạn mau mắn đáp: - Trong rừng này có rất nhiều loại rắn quí và thảo dược. Thiếp đã dùng chúng để chữa trị cho tướng công. Tố Bình tiếp lời: - Kỳ hạn còn đến nửa tháng nữa, chúng ta cứ ở lại đây tính dưỡng vài ngày. Sau đó sẽ cải trang đi Bắc Kinh. Không có ai cản đường, cước trình sẽ rất nhanh. Chính Lan tán thành và hỏi lại: - Nhưng biết lấy gì làm lương thực đây? Nàng đâu quen ăn uống kham khổ? Tố Bình nũng nịu: - Tướng công chớ xem thường, hôm qua thiếp đã ăn hết nửa thau thịt rắn đấy. Trong mấy ngày sau đó, bọn Chính Lan vui vẻ chịu đựng cạnh thiếu thốn nhưng vô cùng đầm ấm. Thi Mạn dắt Tố Bình vào rừng hái rau và bắt thú rừng. Tuy nhiên, món ăn chính vẫn là độc xà, rắn càng độc thịt càng bổ dưỡng. Thi Mạn còn bắt Chính Lan phải nuốt hàng túi mật rắn đáng ghét. Cộng với diệu dụng của kỳ trân, bốn dẻ xương gãy đã liền lại một cách thần kỳ, công lực Chính Lan cũng tăng tiến vượt bậc. Chàng nghe chân khí sung mãn, cứ tưởng do tác dụng của món thịt và mật rắn. Chiều ngày ba tháng mười, Chính Lan bảo hai nàng: - Sáng mai chúng ta có thể khởi hành được rồi. Ta đã hoàn toàn bình phục. Tố Bình thẹn thùng rủ rê: - Vậy chúng ta ra suối tắm gội sạch sẽ, rồi thiếp mới trổ tài dịch dung được. Đêm qua có mưa, nước từ trên núi tràn xuống khiến dòng suối chảy mạnh và dâng cao. Chính Lan phải giang đôi tay mạnh mẽ để hai nàng dựa vào, chống lại sức cuốn của dòng nước bạc. Họ thấp hơn chàng cả cái đầu nên chân không chạm đất. Hai mỹ nhân sung sướng vuốt ve những vết sẹo đã kéo da non, bật cười khanh khách. Chính Lan xiết chặt hai thân hình nõn nà kia, mỉm cười: - Cổ nhân có câu “tạo hóa ố toàn.” Nay ta lấy được đến sáu giai nhân tuyệt thế, hạnh phúc còn hơn thiên tử, chỉ sợ trời xanh ghen ghét không cho được mãi thế này. Tố Bình bịt miệng chàng trách: - Sao tướng công lại nói như vậy? Thực ra đây chỉ là sự bù đắp của hoàng thiên cho chàng đấy thôi. Thứ nhất, chàng không có dung mạo tuấn tú. Thứ hai, song thân bị hãm hại, mấy năm nay lại liên tiếp gặp cường địch suýt chết. Như vậy, sao gọi là toàn mỹ mà chàng lo lắng? Chính Lan hôn lên má nàng khen ngợi: - Bình muội quả có tài biện bác, ta nào có ưu tư gì về mệnh trời. Trước giờ, ta vốn một lòng quả dục, không ngờ cơ tạo lại đẩy đưa đến tay quá nhiều hoan lạc, bảo sao tâm không áy náy? Thi Mạn bật cười: - Đã gọi là mệnh trời thì cứ an nhiên thụ mệnh, cớ chi phải thắc mắc? Tướng công cứ tự nhủ rằng kiếp trước dày công tu hành, gõ thủng đến hàng trăm cái mõ nên kiếp này mới gặp bọn thiếp.(8) Ba người vui vẻ bơi lội, nô đùa như trẻ thơ, đến lúc đói bụng mới lên bờ. Đã gần mười ngày không ân ái, thịt rắn lại bổ, Chính Lan động tình dìu hai mỹ nhân vào miếu. Những mảnh gỗ cuối cùng của chiếc hương án ban phát ánh lửa chập chờn, và sưởi ấm cho ba cơ thể thanh xuân. Chính Lan được ăn món Thất Xà Hà Thủ Ô lại càng dũng mãnh hơn xưa, chẳng để ai phải chịu thiệt thòi. Cảnh ái ân nồng thắm không bút nào tả xiết. Hơn canh giờ sau, ba người chén sạch thau thịt rắn mà vẫn chưa no.
Âu Dương Chính Lan Tác Giả:Ưu Đàm Hoa -- o -- Hồi 9 Long tuyền nhất xuất tà ma khiếp Đế địa âu dương diệt hoạn quan Nguồn:vnthuquan Mời đọc Sáng ra, phu thê Chính Lan thức dậy thật sớm lo việc điểm tâm và hóa trang. Tố Bình mở túi bảo bối, lấy ra ba chiếc mặt nạ mỏng như cánh chuồn và hộp phấn màu. Chỉ sau vài khắc, Chính Lan biến thành một lão nhân lục tuần, tóc hoa râm. Tố Bình cắt tóc mình làm râu giả cho chàng. Còn nàng và Thi Mạn dịch dung thành hai hán tử trung niên, da mặt sạm nắng. Thi Mạn bảo Hồng Quan Kim Xà giải tán xà trận. Ba người lên ngựa đi về hướng bìa rừng. Ra gần đến đường quan đạo, đã thấy người xe qua lại tấp lập. Đó là đám khách thương hồ cùng các xe hàng, đang vội vã đi đến bến đò để vượt sông Hoàng hà. Chính Lan vui mừng nhận ra lá đại kỳ của Phi Ưng tiêu cục. Họ cũng đang hộ tống một xe tiêu nhẹ đi lên hướng bắc. Lão nhân cao lớn cưỡi bạch mã, đi cạnh tiêu xa, chính là tổng tiêu đầu Phi Ưng Kiếm Dương Mẫn, anh em cô cậu của nhạc phụ chàng Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh. Trụ sở của Phi Ưng tiêu cục đặt ở Hoàng Châu, sanh ý không lấy gì làm thịnh vượng. Hôm đám cưới Chính Lan, Dương lão có theo Giang Tô đại hiệp đến dự. Quí Thành Lâm thấy lão là biểu thúc của Trại Tây Thi Du Mỹ Kỳ, liền ngỏ ý giao toàn bộ việc áp tải hàng hóa của Quí gia trang ở mấy tỉnh Giang Nam cho Phi Ưng Kiếm. Lão ta vui mừng khôn xiết, càng biết ơn cháu rể Hồng Nhất Điểm. Bọn Chính Lan phi ngựa ra, chạy đến gần Dương Mẫn. Chàng hạ giọng gọi: - Dương biểu thúc, tiểu tế là Chính Lan đây. Phi Ưng Kiếm bán tín bán nghi, nhìn chàng với vẻ e ngại. Chính Lan mỉm cười nhắc nhở: - Hôm ấy, biểu thúc đã tặng cho tiểu tế và Mỹ Kỳ một cặp chim ưng bằng bạch ngọc. Việc này người ngoài chẳng thể biết được, Phi Ưng Kiếm mừng rỡ nói: - Lão phu ghé Từ Châu, nghe đồn hiền điệt tế áp tải thiên niên Hà Thủ Ô đi Bắc Kinh, dọc đường chạm trán Hồng hồ thập bát trại và Đào Hoa cung, lòng vô cùng lo lắng, không ngờ hiền điệt tế vẫn còn ở đây. Chính Lan giới thiệu hai ái thê và hỏi: - Biểu thúc hộ tống tiêu xa đi đến đâu? Dương lão cười đáp: - Nhờ sự tín nhiệm của Quí gia trang mà Phi Ưng tiêu cục nổi tiếng khắp Giang Nam, các tài chủ khác cũng đua nhau gửi hàng. Thực ra, cũng là nhờ oai danh Hồng Nhất Điểm đại hiệp của hiền tế đấy. Khi họ biết lão phu là chú vợ của hiền tế, càng bội phần tin tưởng. Tố Bình cười khúc khích: - Chắc chắn biểu thúc đã tiết lộ việc ấy? Phi Ưng Kiếm đắc ý: - Đúng thế, có được cháu rể như Chính Lan, tội gì phải giấu. Nhưng ta chỉ nói với các đại tài chủ thôi. Lão hắng giọng rồi kể tiếp: - Lần này lão phu được Hoàng tài chủ ở Thượng Hải ủy thác đem trăm cân bảo ngọc tây dương đến kinh đô. Số hàng này giao tại cửu hiệu của họ Hoàng, để bán cho các phi tần, hay tiểu thư nhà quyền quí.(9) Chính Lan nghe lão nói sẽ đi Bắc Kinh, mừng rỡ kể lại nội tình và nhờ lão giúp đỡ. Tất nhiên, Phi Ưng Kiếm rất sẵn sàng. Thế là Phi Ưng tiêu cục có thêm ba tiêu sư nữa. Như đã nói ở trên, sông Hoàng hà đổi dòng khi vừa qua khỏi thành Khai Phong, ngoặc xuống phía đông Tế Vinh, rồi theo hướng đông nam đổ vào hạ lưu sông Hoài, chảy ra Hoàng Hải. Vì vậy, bến đò sang sông rất gần với Tế Ninh. Phi Ưng Kiếm thấy Chính Lan không có vũ khí, liền sai người chạy vào thành mua một thanh kiếm thật tốt. Dương tổng tiêu đầu muốn tỏ lòng biết ơn cháu rể nên đã cao giọng bảo phó tổng tiêu đầu Phục Hổ Đao Hoa An: - Hiền điệt hãy chọn thanh gươm tốt nhất, giá cả không hạn chế. Thi Mạn bỗng đòi đi theo: - Thiếp chưa đến Tế Vinh lần nào, xin được theo Hoa đại thúc xem qua cảnh vật. Chính Lan mỉm cười: - Nàng đã thích thì cứ đi. Ba khắc sau, Hoa An và Thi Mạn trở lại. Mặt mỹ nhân thì tươi như hoa còn mặt họ Hoa thì lại nhăn nhó như khỉ ăn ớt. Thi Mạn tươi cười trao Chính Lan một thanh trường kiếm cũ kỹ, cán ngà voi vỏ bằng da lạc đà. Nàng ríu rít kể: - Thật là may mắn, vừa đến cửa thành đã gặp ngay một gã người Tây Vực đang rao bán kiếm. Gã bập bẹ kể rằng cần lộ phí về Tây Hạ nên mới phải cắn răng bán bảo kiếm gia truyền. Thiếp thấy tội nghiệp chẳng nỡ kỳ kèo thêm bớt, chịu giá hai ngàn lượng bạc. Hoa An không dằn nỗi lòng tiếc của, mở miệng cằn nhằn: - Thiếu phu nhân đừng quá nhẹ dạ thì năm trăm lượng gã kia cũng bán. Phi Ưng Kiếm nghe nói thanh kiếm nuốt mất hai ngàn lượng bạch ngân, lòng đau như cắt nhưng cũng gượng cười: - Giá cả chẳng quan trọng, quí hồ kiếm tốt là được. Chính Lan lẳng lặng rút kiếm ra khỏi vỏ, thấy nước thép mờ đục, chẳng hề tỏa ra chút hơi lạnh nào. Chàng biết rõ Thi Mạn là người tinh minh, tất chẳng bao giờ mua lầm, liền chăm chú quan sát thật kỹ. Cuối cùng chàng nhận ra ba chữ mờ mờ nằm dọc thân kiếm, chữ mòn đi và không đủ nét. Nhưng dựa vào những gì còn lại, chàng cũng đoán ra được đây là thanh Long Tuyền kiếm, một thần vật thời Xuân Thu, từng sánh vai với Can Tương, Mạc Du, Ngư Trường, Thái A… Chàng búng thử vào thân kiếm, lắng nghe tiếng ngân nga trong vắt và dài dằng dặc. Chính Lan hoan hỉ phi thường nhưng cố nén xúc động và chỉ nói: - Hảo hiền thê, cám ơn nàng đã tặng bảo vật. Phi Ưng Kiếm và Phục Hổ Đao đâu biết rõ ẩn tình, nhìn Chính Lan cười mỉa, thầm rủa chàng là một gã nịnh đàn bà, biết vợ mình mua kiếm lầm mà vẫn ngợi khen. Chính Lan truyền âm nói với Tiểu Linh Thố. Tố Bình hiểu ý, lấy ra hai tấm ngân phiếu ngàn lượng, trả lại cho Hoa An: - Số bạc kia là xương máu của anh em tiêu sư, chị em thiếp đâu nỡ lấy của họ, mong Hoa đại thúc nhận lại cho. Chính Lan cũng nói: - Nếu đại thúc không nhận, Chính Lan tôi xin hoàn lại bảo kiếm. Dương lão mượn cơ hội ấy cười hì hì: - Chính Lan đã nói thế, Hoa lão đệ cứ nhận lại bạc cho y được vui. Phục Hổ Đao khoan khoái nhận lại ngay. Đò ngang cặp bến, tám tiêu sư đưa xe tiêu và ngựa lên đò. Họ đều là cao thủ hạng nhất của Phi Ưng tiêu cục. Số bảo ngọc này trị giá đến năm vạn lượng vàng nên ai nấy đều lo ngay ngáy. Nay có Hồng Nhất Điểm đồng hành mối lo kia biến mất, họ thầm biết ơn chàng. Sang đến bờ Bắc, Chính Lan nhận ra hàng trăm gã cẩm y thị vệ đang tra xét khách sang sông. Chàng thì thầm nói với Phi Ưng Kiếm: - Biểu thúc hãy lựa lời mà đối phó. Hy vọng chúng không biết mối quan hệ giữa biểu thúc và tiểu điệt. Dương lão giờ đây bắt đầu hối hận vì cái thói nhiều lời. Lão trấn an Chính Lan mà cũng là để trấn an chính mình: - Ta họ Dương còn nhạc phụ ngươi họ Du, làm sao chúng đoán ra được. Chỉ cần chút lễ vật mãi lộ là xong ngay. Người, ngựa, tiêu xa lên cả trên bờ, chờ đến phiên tra xét. Chính Lan thấy bọn thị vệ thân thủ linh hoạt, mắt sắc như dao, biết ngay chúng là cao thủ Đông Xưởng hoặc Tây Xưởng. Lúc hành sự công khai chúng có quyền mặc áo cẩm y thị vệ. Hàng người phía trước đã qua lọt, Phi Ưng Kiếm cố nặn ra một nụ cười thật dễ mến, nói với gã thị vệ: - Bọn thảo dân là Phi Ưng tiêu cục ở Hàng Châu, xin bái kiến chư vị thị về đại nhân. Đây là giấy thông hành do tri phủ Chiết Giang cấp! Lão cung kính đưa ra một quyển sổ mỏng. Gã đội trưởng thị vệ mở ra xem, thấy tấm ngân phiếu hai trăm lượng bạc của Sơn Tây tiền trang, liền nở nụ cười thân ái: - Bọn ta đông đến hơn trăm, e rằng không đủ uống rượu, mong Dương lão phóng tay thêm chút đỉnh. Dương Mẫn vui vẻ móc ra thêm tờ trăm lượng, đặt vào quyển sổ thông hành. Gã thị vệ gật gù, vuốt nhẹ đã cuốn tròn hai tờ ngân phiếu vào tay. Gã trả sổ cho Phi Ưng Kiếm rồi cao giọng: - Cho qua. Chính Lan thở dài trước cảnh tượng trái tai gia mắt kia. Chàng nghe lòng lặng trĩu ưu tư, lo lắng cho giang sơn. Triều đình đã hủ bại như thế này, còn mong gì chống lại quân Thanh? Tám năm trước, thừa lúc nhà Minh suy yếu, giặc cướp nổi lên khắp nơi, quân Mãn Châu tấn công Trung Hoa, thắng mười vạn quân Minh, lần đầu chiếm được hết miền Liêu Đông. Quân Minh nhờ đại pháo của Bồ Đào Nha chặn chúng lại bên kia Sơn Hải Quan. Quân Thanh quay sang quấy nhiễu vùng Tây Hạ. Đất nước suy vong, phần lớn do tội của bọn gian thần, tặc tử như bè lũ Ngụy Trung Hiền. Chính Lan chỉ mong đến Bắc Kinh thật sớm, vung ba thước gươm chém đầu lão cẩu thái giám và bọn tay sai. Vì vậy, khi đến Tế Nam, Chính Lan đã chia tay với Phi Ưng tiêu cục. Họ có xa tiêu nên cước trình chậm chạp. ° ° ° Mờ sáng ngày bảy tháng mười, phu thê Chính Lan rời thành Tế Nam.Trời còn sớm, đường vắng người nên họ có thể phi nước đại. Năm ngày sau, họ chỉ còn cách Bắc Kinh bốn trăm dặm. Thấy hai mỹ nhân lộ vẻ mệt mỏi, Chính Lan đành chậm lại, hòa vào đoàn lữ khách, thong thả dong ruổi. Và khi đến trấn Vĩnh Lộc, ba người dừng cương, ghé vào một phạn điếm dùng cơm. Hảo Vị phạn điếm nằm ở đầu nam của trấn, cơ ngơi rộng rãi, thoáng mát nên được nhiều lữ khách chiếu cố. Dĩ nhiên, thức ăn của họ cũng phải ngon miệng. Chính Lan đã từng đến Bắc Kinh hồi ba năm trước nên biết tiếng quán cơm này. Hai mỹ nhân giả trai nên chẳng dám mở miệng, mặc Chính Lan gọi thức ăn. Ở vùng núi phía bắc Hoàng hà, giờ đã sắp cuối thu, ít ngày nữa tuyết sẽ rơi, nên cảnh vật nhuốm một màu xám xịt, ảm đạm. Chưa ăn xong bữa cơm trưa, Chính Lan thoáng nghe tiếng vó ngựa rầm rọ vọng đến. Lát sau, xuất hiện một toán cẩm y thị vệ đông độ hai mươi người, áp giải hai chiếc xe tù. Đó là loại xe song mã không mui, mỗi xe chở được hai lồng gỗ nhốt tù nhân. Người tù phải ngồi thò đầu ra ngoài và không thể rút vào. Trong bốn chiếc đầu lem luốc vì bụi đất và máu kia có ba chiếc rất đặc biệt, chúng không hề có tóc. Chính Lan kinh hãi nhận ra Hán Trung Tam Ngốc. Chúng có vẻ khoẻ mạnh, tỉnh táo hơn người thứ tư. Người này đang gục mặt xuống, tóc lòa xòa phủ kín nên chàng không thấy rõ. Trưởng toán thị vệ là một lão già râu bạc, da mặt nhăn nheo, sống mũi lệch hẳn sang một bên. Lão ta đã quá già để làm thị vệ, chắc cũng là cao thủ tam xưởng cải trang thôi. Lão ta cất giọng the thé: - Chúng ta vào ăn cho nhanh rồi lên đường. Hai gã thị vệ đánh xe đứng lên, vung roi quất vào đầu bốn tù nhân, lớn tiếng đe doạ: - Khôn hồn thì ngồi im, để bọn lão gia ăn cho ngon miệng. Nếu la lối, chửi rủa sẽ bị bỏ đói. Nhát roi kia đã khiến người thứ tư ngẩng đầu lên, quắc mắt nhìn kẻ thù. Chính Lan rụng rời nhận ra bằng hữu của mình, Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Tam ngốc đã về Trường An hú hí với vợ trẻ, còn Thiết Xuyên trở lại Sơn Tây với từ mẫu, vậy vì sao họ lại cùng bị bắt giải lên kinh? Chính Lan tự hỏi như vậy và chàng cũng ngạc nhiên khi thấy toán thị vệ này có thể bắt sống được họ. Như vậy, lão già đeo kim bài trên ngực áo kia ắt phải rất lợi hại. Lúc này, bọn thị vệ đã ngồi cả xuống lột nón ra. Nhờ vậy, Chính Lan mới nhìn rõ lão trưởng toán có đôi mắt một lớn một nhỏ rất quái dị. Chính Lan truyền âm nói rõ sự tình cho hai ái thê nghe. Tố Bình liếc về phía bàn đám thị vệ, biến sắc thì thầm: - Tướng công, lão già kia chính là Âm Dương Quỉ Tẩu Lưu Phong ở đất Phúc Kiến. Pho Âm Dương Lạc Hồn chưởng của lão tỏa độc khí vô cùng lợi hại. Mười năm trước lão chạm trán gia phụ, bị đả bại nên mai danh ẩn tích, không ngờ lại đầu nhập tam xưởng? Chính Lan gật đầu, tư lự bảo: - Cướp tù chẳng khó nhưng phải ra tay êm thắm, không để bất cứ tên nào sống sót. Nếu không Ngụy Trung Hiền sẽ biết chúng ta đã đến Bắc Kinh và rải đại quân truy bắt. Chợt một gã thị vệ thấp béo bước ra, tay cầm bình rượu và một con gà luộc. Gã đến cạnh chiếc xe tù cười hăng hắc: - Đứa nào mở miệng chửi Hồng Nhất Điểm, đại gia sẽ thưởng cho rượu thịt. Hách Thiết Xuyên liền phun nước miếng vào mặt gã thị vệ. Nhưng do khí lực cạn kiệt, bãi nước bọt chẳng đến nơi được. Chính Lan thấy rõ Hán Trung Tam Ngốc nuốt nước miếng ừng ực, trố mắt nhìn miếng thịt gà. Chắc chúng phải chịu đói khát khá lâu rồi. Nhị ngốc Hồ Giả ngập ngừng bảo: - Hay là ngươi cho bọn ta ăn uống no bụng, lúc ấy mới có khí lực mà chửi chứ? Gã thị vệ cười nhạt: - Đại gia đâu phải là con nít mà mắc lừa? Nhị ngốc cụt hứng im luôn. Gã thị vệ cười vang trở vào trong quán. Ở ngoài này, tam ngốc bàn bạc với nhị ngốc: - Hay là chúng ta cứ chửi đại ca vài câu có sao đâu? Thứ nhất là đại ca không hề nghe thấy. Thứ hai, đại ca là người rộng lượng, nếu có biết chúng ta chửi vài câu chắc cũng không nỡ trách. Cổ nhân chẳng có câu cái gì mà… ngộ biến tùng quyền đấy sao? Nhị ngốc phân vân: - Xem ra tam đệ nói cũng có lý, ta nhịn đói hết nổi rồi. Nhưng đại ngốc Hồ Đạo Tĩnh đang bị nhốt chung xe với Thiết Xuyên đã mắng ngay: - Hai ngươi quả là phường đốn mạt. Sao không nhớ ba năm trước bị quan quân gông cổ đưa về đại lao Hán Trung chờ chém, được Âu Dương đại ca cứu mạng. Nay nỡ vì miếng ăn mà chửi rủa người ơn được ư? Thiết Xuyên cười nhạt: - Cứ để chúng chửi. Ta đảm bảo cứ chửi rủa Chính Lan ngàn lời cũng chẳng được miếng nào đâu. Tam ngốc chụp ngay cơ hội cười hì hì bảo: - Vậy để ta chửi thử vài câu, xem như đánh cuộc với Hách huynh một chuyến. Thiết Xuyên chua chát nói: - Nếu chửi mà thoát chết thì cũng đáng. Bằng chửi để đổi lấy miếng thịt thì sao xứng với danh võ sĩ? Chính Lan đã nghĩ ra phương thức đoạt tù, liền bước ra ngoài sân, giả đò xem xét móng ba con tuấn mã. Từ đây đến tù xa chỉ cách hơn trượng. Chàng vận công truyền âm nói với Thiết Xuyên: - Hách huynh, tại hạ là Chính Lan đây. Thiết Xuyên giật bắn mình, nhìn về phía lão già đang ngồi dưới chân lũ ngựa. Đôi mắt ánh lên niềm hoan hỉ phi thường và chứa chan tình cảm. Chính Lan liền nói sơ kế hoạch của mình, rồi trở vào quán gọi tiểu nhị tính tiền cơm. Ba người lên ngựa đi ngay không hề nhìn bốn người tù đến nửa con mắt. Nhị ngốc Hồ Giả bỗng lẩm bẩm: - Lạ thực, hai gã mặt đen kia sao lại có đôi mông tròn trịa đầy đặn thế nhỉ? Câu nói này không thoát khỏi thính lực của hai mỹ nhân. Tiểu Linh Thố đỏ mặt, hậm hực nói: - Gã ngốc kia sắp chết mà còn nói bậy, lát nữa sẽ biết tay ta. Thi Mạn cười khúc khích: - Có phải chính gã Hồ Giả ấy đã từng gọi Bình thư là con mắm đấy không? Chính Lan mỉm cười: - Nhanh chân lên, chúng ta phải đến chỗ mai phục trước bọn thị vệ. Ba con ngựa tung vó phi mau về hướng bắc. Lúc này, Vô Nhân Kiếm Khách chợt cao giọng gọi: - Lưu đại nhân, Hách mỗ có chuyện muốn thương lượng. Âm Dương Quỉ Tẩu ngạc nhiên bước ra hỏi: - Sao ngươi biết lão phu họ Lưu? Thiết Xuyên cười mát: - Thanh danh của Âm Dương Quỉ Tẩu Lưu Phong lừng lẫy võ lâm, lẽ nào tại hạ lại không biết? - Thế ngươi muốn nói gì? Thiết Xuyên buồn rầu đáp: - Tại hạ còn từ mẫu phải phụng dưỡng, chẳng thể vì Hồng Nhất Điểm mà lỗi đạo được. Nay y đắc tội với triều đình, tại hạ đành phải đoạn bào tuyệt giao thôi. Nếu đại nhân khai ân không bắt tội tại hạ và Hán Trung Tam Ngốc, Hách mỗ xin dẫn đường đến chỗ hẹn với Âu Dương Chính Lan. Ba gã ngốc tròn mắt sửng sốt, không ngờ Thiết Xuyên lại trở mặt bán rẻ Chính Lan. Đại ngốc mở miệng mắng ngay: - Thiết Xuyên, không ngờ ngươi lại là hạng người xấu xa như vậy, ta thật… Bỗng gã nhớ lại rằng cả bọn chưa hề hò hẹn với Chính Lan bao giờ. Bốn người kéo nhau đi Bắc Kinh là do bang chủ Cái bang Đại Đầu Cái cho đệ tử đưa thư đến, báo rằng Chính Lan áp tải thiên niên Hà Thủ Ô đi Bắc Kinh, đang gặp rất nhiều cường địch. Đại ngốc lờ mờ hiểu rằng họ Hách đang âm mưu gì đấy, nên không chửi mắng nữa. Nhưng lại đến lượt nhị ngốc, gã bô bô nói: - Cháy nhà ra mặt chuột, thế mà lúc nãy dám nên mặt giáo huấn bọn ta. Tam ngốc cũng đang định chửi tiếp nhị ca thì Thiết Xuyên gầm lên: - Nếu các ngươi muốn chết vì Chính Lan thì ta cũng chẳng cần, đừng nhiều lời nữa. Ba gã ngốc im ngay, cho rằng sống dĩ nhiên tốt hơn chết. Sau này họ còn cơ hội tố cáo Thiết Xuyên với Chính Lan. Âm Dương Quỉ Tẩu thấy thái độ nét mặt của Hán Trung Tam Ngốc rất thành thực, liền tin ngay. Lão vui vẻ nói: - Đông Xưởng chỉ cần bắt được Hồng Nhất Điểm, chư vị chịu khai báo tất sẽ vô can. Thiết Xuyên ngượng ngùng nói: - Hắn ta hẹn là không bao giờ sai rồi, chẳng chạy đâu cho thoát được. Trước tiên, mong đại nhân cho bọn tại hạ ăn no cái đã. Đã mấy ngày rồi có được miếng nào đâu? Lưu Phong cười ha hả: - Lão phu thật có lỗi, xin chờ một lát. Lão bảo bọn thủ hạ vào quán mua mấy cân thịt và vò rượu, đút cho bốn tù nhân ăn thật no. Hai khắc sau, toán thị vệ hớn hở lên đường, chắc mẩm phen này sẽ lập được công to. Âm Dương Quỉ Tẩu càng bội phần hoan hỉ khi nghĩ đến nhánh thiên niên Hà Thủ Ô. Ngụy Trung Hiền đã hứa sẽ thưởng báu vật ấy cho ai giết được Hồng Nhất Điểm. Khoảng giữa giờ thân, đoàn xa mã đi đến một cánh rừng âm u, cách trấn Vĩnh Lộc chừng ba mươi dặm. Hách Thiết Xuyên ra hiệu dừng lại. Gã chỉ vào đường mòn bên hữu nói với Lưu Phong: - Lưu đại nhân, Chính Lan và hai phu nhân hiện đang ở trong một ngôi miếu cổ cách đây chừng hơn nửa dặm. Võ công y rất cao cường, thính giác tinh tường, mong chư vị cẩn thận cho. Âm Dương Quỉ Tẩu là người cơ cảnh, liền bảo một tên thị vệ: - Ngươi vào trước điều nghiên địa hình, nhưng không được đến gần. Gã thị vệ gầy gò ấy liền xuống ngựa, phi thân vào rừng. Gần khắc sau gã trở lại báo cáo: - Bẩm đường chủ, quả thực có một ngôi miếu cổ, trong có tiếng người đang trò chuyện. Chung quanh là bãi cỏ trống, không có gì khả nghi. Quỉ Tẩu hài lòng cắt bốn tên thị vệ ở lại canh giữ tù xa, đưa mười lăm tên vào rừng. Tất nhiên bọn họ phải đi bằng đôi chân vì cưỡi ngựa sẽ dễ bị lộ. Chiều thu trời tối sớm, gió lạnh lồng lộng từng cơn. Bốn gã thị vệ uể oải xuống ngựa, đừng gần nhau tán gẫu, mắt hướng về hai xe tù. Nửa khắc trôi qua, khi bọn Âm Dương Quỉ Tẩu đền gần cổ miếu thì ngoài bìa rừng phát sinh tai hoạ. Từ trên những tàn cây rậm rạp, ba bóng người lao xuống đầu bọn canh tù. Ánh kiếm mịt mờ lạnh lẽo và nhanh như thiểm điện. Bốn gã thị vệ kia đang nhìn ra ngoài, nên khi tử thần đến từ phía sau, họ chết mà không biết vì sao. Bốn chiếc thủ cấp lăn lông lốc trên mặt đường và chẳng hề có tiếng kêu than. Ba bóng ấy chính là lão già râu dài và hai hán tử có đôi mông tròn trịa. Lão nhân vung kiếm phá cũi gỗ và chặt phăng cả xiềng thép. Lão bồng Thiết Xuyên nhảy xuống đất. Ba gã ngốc cứ tưởng hai hán tử kia cũng giúp mình, nào ngờ một gã co giò đạp vào mông nhị ngốc Hồ Giả, gã văng khỏi xe lăn vài vòng, đứng lên ngơ ngác hỏi: - Sao các hạ lại đạp ta? Hán tử thứ hai lướt đến, vung tay tát vào mặt gã và rít lên the thé: - Từ nay ngươi còn dám bình phẩm cơ thể chị em ta nữa hay không? Lão nhân râu dài nạt ngang: - Thi Mạn, chúng ta đâu có thời gian để đùa giỡn? Ba gã ngốc nhận ra giọng Chính Lan, vừa mừng vừa sợ, sụp cả xuống gọi: - Đại ca, đại tẩu. Lo sợ nhất vẫn là tam ngốc, gã đã nghĩ ra ý định chửi mắng chàng để kiếm miếng ăn. Chính Lan nghiêm giọng: - Ba ngươi nhặt lấy mấy thanh đao kia, mang Thiết Xuyên ẩn vào chỗ kín đáo, chờ ta diệt trừ xong bọn Âm Dương Quỉ Tẩu. Nói xong, chàng trao Thiết Xuyên cho tam ngốc rồi cùng hai mỹ nhân đi ngược vào rừng. Đến giữa đường Chính Lan và Tố Bình nhảy lên một tán cây, còn Thi Mạn tiếp tục đi. Gần đến nơi bọn Quỉ Tẩu ẩn nấp nàng mới trèo lên cây. Lúc này, Lưu Phong và thuộc hạ nhất thời ập vào ngôi cổ miếu đang leo lét ánh đèn kia. Nhận ra không có ma nào, Quỉ Tẩu kinh hãi gầm lên: - Chết rồi, chúng ta đã trúng kế điệu hổ ly sơn. Bọn thị vệ xúm lại quanh lão chờ lệnh. Một tên nói: - Bẩm đường chủ, trên đường đi nào có ai tiếp xúc với bọn tù nhân đâu? Quả thực trong miếu vẫn còn mùi phấn thoang thoảng. Hay là Hồng Nhất Điểm kịp thời phát hiện ra gã Trương ốm, đã chuồn mất. Tên thị vệ trinh sát cãi liền: - Ngươi đừng nói càn. Ta ở cách xa đến năm trượng, làm sao hắn biết được? Quỉ Tẩu bực bội quát: - Không cãi nữa. Cứ rút ra ngoài xem tù xa còn hay không? Lão đi đầu, thận trọng quan sát và dồn công lực vào song thủ phòng bị cẩn mật. Trong rừng thiếu ánh sáng nên chẳng ai phát hiện một màn sương mờ nhạt lơ lửng trước mặt, thản nhiên đi xuyên qua. Đây chính là đàn cổ trùng độc đáo của Thi Mạn. Nàng chờ chúng qua khỏi, thu hồi đám mây cổ độc, rón rén theo sau. Quỉ Tẩu đi mãi chẳng thấy ai tấn công cũng bị lơi lỏng, rảo bước nhanh hơn. Bất ngờ, từ trên tán cây mé tả, một luồng kiếm quang lạnh lẽo chụp xuống đầu lão ma. Chính Lan không biết rằng công lực mình đã tăng tiến vượt bậc nên dồn hết sức mình vào chiêu Kim Ô Tây Trầm. Thanh Long Tuyền Kiếm được phổ chân khí, ánh thép tỏa ra xanh biêng biếc. Quỉ Tẩu kinh hoàng trước chiêu kiếm mãnh liệt, cử chưởng giáp mạnh vào màn kiếm quang kia. Âm Dương Lạc Hồn Chưởng mang hai màu hắc bạch và tỏa mùi hăng hắc. Nhưng do bị động lão chỉ dành được có tám thành công lực, và không sao chặn nổi đường kiếm của đối phương. Long Tuyền kiếm xé nát chưởng kình, ập vào thân trên Lưu Phong. Lão rú lên ảo não, hai tay bị chặt cụt và thân trước thủng lỗ chỗ như đáy rổ. Lúc này, Tố Bình cũng đã nhảy xuống tấn công đám thị vệ. Thi Mạn từ phía sau nên khép kín gọng kìm. Nàng phát động cổ trùng, đám thị vệ ôm ngực lảo đảo, trở thành mồi ngon cho phe Chính Lan. Chàng căm hận bọn Đông Xưởng tiếp tay bọn Ngụy Trung Hiền lũng đoạn triều cương, hà hiếp lương dân, nên giết không thương tiếc. Chỉ nửa khắc sau đã chẳng còn một tên sống sót. Ba người kéo mười sáu tử thi vào sâu trong rừng, rồi trở ra ngoài gọi Hán Trung Tam Ngốc. Hai chiếc xe tù và bầy ngựa cũng được đưa cả vào rừng. Tóm lại Chính Lan phi tang tất cả để xóa dấu vết. Phe Ngụy Trung Hiền sẽ chẳng bao giờ biết được vì sao thủ hạ mình biến mất. ° ° ° Sáng hôm sau có một đoàn lái buôn gồm bảy người áp tải một xe hàng đi lên hướng bắc. Trên xe là một bao da thoang thoảng bốc ra mùi dược thảo. Cây thuốc phơi khô tất chẳng nặng nề gì, bởi vậy xe song mã chạy khá nhanh. Bọn Đông Xưởng đã chưng dụng xe hàng để chở cũi tù, nên giờ đây bọn Chính Lan mới có mà sử dụng. Còn thảo dược thì sao? Ba năm trước Chính Lan đi ngang đoạn đường này, nghe tiếng cọp rống từ trong rừng và người la hét cầu cứu, liền chạy vào, kịp thời giết mãnh thú cứu mạng hai lão đại sư già. Họ là người của ngôi miếu trong rừng, trồng cây thuốc bán cho dân. Nhờ thế Chính Lan quen biết họ, và có nơi để bày mưu cứu các tù nhân. Giờ đây Chính Lan chất hết số thuốc khô của miếu lên xe, chở về Bắc Kinh. Đương nhiên Thiết Xuyên và ba gã ngốc đều được cải trang, vũ khí giấu kín dưới gầm xe. Càng đến gần kinh đô, lực lượng thị vệ xuất hiện càng nhiều. Nhưng chúng không biết rằng nhân số bọn Chính Lan đã tăng gấp đôi, chẳng để ý đến bảy kẻ quê mùa kia. Gia dĩ, Tây Môn Tố Bình đã dịch dung rất cẩn thận, và mượn cả thẻ thuế thân của bảy người công nhân trong cổ miếu. Vì vậy, bọn Chính Lan đi trót lọt đến Bắc Kinh, đúng ngày rằm tháng mười. Xe thảo dược cồng kềnh và bộ vó chất phác bắt buộc họ phải trọ trong một khách điếm hạng bét ở ngoại thành phía nam. Ngay chiều hôm ấy, Tiểu Linh Thố lại hóa trang lần nữa, biến Chính Lan thành một vị lang trung đạo mạo, và Thi Mạn thành một tiểu đồng đeo rương thuốc. Theo lời dặn dò của Quí Thành Lâm, Chính Lan đến tư dinh của Trương đại học sĩ, người chấp chưởng Văn Hoa Điện. Sau khi lên ngôi, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã bãi bỏ cơ quan Trung Thư Tĩnh, không dùng tể tướng, đích thân chỉ huy lục bộ Lại, Lễ, Hình, Binh, Hộ, Công. Ông còn lập ra bốn điện Văn Hoa, Vũ Anh, Trung Cực, Kiến Cực và hai các Văn Uyên các, Đông các với các đại học sĩ để làm cố vấn cho ông. Sau đời Minh Thành Tổ, các vua cởi mở một chút, cho bọn đại học sĩ ấy tham dự triều chính, gọi là nội các. Đến thời Minh mạt, nội các bị đám hoạn quan nắm lần lần. Sùng Trinh lên ngôi, có ý muốn tiêu diệt Ngụy Trung Hiền và bọn hoạn quan nên trọng các đại học sĩ. Vì vậy Trương Nguyên Khải là một trong những người thân tín nhất của thiên tử, có quyền ra vào tử cấm thành bất cứ lúc nào. Thành Bắc Kinh chia làm hai phần nội thành và ngoại thành. Tư dinh của Trương đại học sĩ nằm ở ngoại thành, cách cửa Ngọ môn chừng hơn dặm. Họ Trương là người liêm khiết nên cơ ngơi giản dị, khiêm tốn. Mảnh đất vua ban khá rộng nhưng đại học sĩ chỉ xây một căn nhà nhỏ ba gian, diện tích còn lại trồng hoa và cây cối. Chung quanh rào vây là hàng tùng bách, cạnh đông có vài bụi trúc và mấy cây hàn mai. Mùa xuân ở Bắc Kinh rất lạnh nên chỉ có loại mai quí này là trổ bông. Khắp nơi, lác đác những bụi hoa đủ loại, nhưng không hề có giả sơn hay chậu cảnh, và cũng chẳng có những lồng chim sơn son như phủ đệ của các đại thần khác. Chính Lan buột miệng khen: - Trương đại học sĩ quả là người quân tử hiếm có. Thi Mạn mỉm cười: - Tướng công chưa thấy mặt sao đã vội khen? Chính Lan ôn tồn giải thích: - Không phải vì vẻ thanh bạch, giản dị kia mà ta nhận xét như vậy. Nàng thấy không, ở đây cây cỏ đều sinh trưởng rất tự nhiên, không hề bị sửa sang hay thúc ép? Bậc thiện nhân muốn nghe chim hót thì vào rừng, muốn xem cá lội thì đến ao hồ, chứ không thích nhìn cảnh cá chậu chim lồng. Còn như muốn thưởng thức vẻ đẹp của núi non thì chống gậy trúc tìm đến ngũ nhạc, chứ không ngắm mấy hòn đá nhỏ bé mà tự mãn. Họ Trương là bậc thiện nhân ấy đấy. Thi Mạn gượng đáp: - Đạo lý cao xa ấy thiếp chẳng dám lạm bàn. Chợt từ trong nhà có một gã gia đinh trẻ tuổi đi ra, cao giọng hỏi: - Nhị vị tìm ai vậy? Chính Lan hòa nhã đáp: - Dám hỏi Trương đại học sĩ có nhà không? Tại hạ có việc muốn cầu kiến. Gã gia đinh cau mày hỏi lại: - Danh tính nhị vị là gì, ở đâu đến? Chính Lan biết ngay Trương Nguyên Khải có nhà, chàng vui vẻ bảo: - Các hạ cứ vào bẩm rằng có người của bố chánh sứ ty Tích Giang đến bái kiến. Gã gia đinh quay vào, lát sau trở ra, kính cẩn mời khách nhập trang. Trương đại học sĩ đang ngồi cạnh bàn bát tiên. Thấy khách vào đến, đứng lên đón chào, mời họ an toạ. Chính Lan thấy lão dung mạo đoan chính, râu ba chòm đen nhánh, đoán là người mình cần tìm. Chàng cung kính nói: - Tại hạ được hữu bộ chánh sứ Tích Giang ủy nhiệm mang thiên niên Hà Thủ Ô đến trao cho đại nhân, để dâng lên hoàng thượng. Chàng trao cho lão bản tấu chương và hộp vàng đựng kỳ trân. Trương đại học sĩ mở ra kiểm tra cẩn thận, gật gù hài lòng. Lão đem cho tên gia đinh đem vào trong cất rồi vui vẻ hỏi: - Vì sao Lâm bố chánh phải nhờ các hạ, mà không giao cho khâm sứ? Chính Lan mỉm cười: - Có lẽ ông ta sợ rằng khâm sứ hớ hênh, không bảo toàn nối báu vật. Trương Nguyên Khải lắc đầu cười nhạt: - Họ Lâm đã trúng kế của thiên tuế rồi. Viên thái giám kia là em ruột họ Ngụy, được thánh thượng giao trọng trách mang kỳ trân về. Điều này khiến Ngụy công công khó xử vì ông ta hoàn toàn không muốn nhánh thiên niên Hà Thủ Ô về đến Bắc Kinh, và cũng không thể để bào đệ mất đầu. Do vậy Ngụy công công đã bày mưu, bảo em mình khua chiêng gõ mõ, khiến Lâm bố chánh sợ hãi, nhờ cao thủ âm thầm áp tải bảo vật… Không chờ lão nói hết câu Chính Lan vung chưởng giáng vào ngực lão ta. Dường như lão đã đề phòng nên tung mình rời khỏi chỗ nhanh như chớp giật và bật cười khanh khách: - Giỏi cho Hồng Nhất Điểm, xem ra ngươi cũng thông tuệ đấy. Thì ra Chính Lan có thính giác siêu tuyệt nên đã phát hiện ra tiếng chân nhiều người ở bên ngoài. Cộng với cách họ Trương gọi Ngụy Trung Hiền là Cửu Thiên Tuế công công khiến chàng sinh lòng hoài nghi. Thứ hai, Trương đại học sĩ chẳng thể nào biết được âm mưu của Ngụy Trung Hiền và khâm sứ. Thứ ba, đối phương nói rất lâu mới đổi hơi, biểu hiện công lực thâm hậu chứ chẳng văn nhược như một đại học sĩ. Chính Lan đánh hụt một chưởng giận dữ gầm lên, rút kiếm lao đến tấn công tên giả mạo kia. Thi Mạn cũng vội múa tít Kim Xà đối phó với bọn thị vệ chúng đã ập vào đến tận trong nhà. Chính Lan nóng ruột vì kỳ trân bị đoạt mất, dồn hết công lực vào chiêu Đại Giang Đông Khứ, kiếm kình lớp lớp cuồn cuộn như sóng Trường giang cuốn đến. Lúc này, trên tay đối phương đã xuất hiện hai chiếc vòng thép đen tuyền, cạnh có răng cưa, đường kính độ hơn gang, lão múa tít song hoàn, tạo lên màn hắc quang vô cùng kín đáo. Nhưng lão không biết rằng thanh kiếm trong tay Chính Lan lại là thần vật. Long Tuyền kiếm phá tan hắc quang và lướt vào cơ thể của lão. Kẻ xảo quyệt kia rú lên đau đớn, toàn thân đẫm máu, đầu rời khỏi cổ. Chính Lan quay lại hợp sức cùng Thi Mạn. Chỉ vài chiêu đã giết tám tên, đẩy bật bọn thị vệ ra ngoài. Chàng buồn bã nói: - Kỳ trân đã mất, ta biết ăn nói làm sao với thánh thượng đây? Thi Mạn cười mát: - Y đạo của tướng công và thiếp thừa sức cứu thiên tử, trước mắt phải thoát cho được khỏi chốn này. Dứt lời, nàng rải liền hai trái Đảo Thiên thần đạn rồi kéo Chính Lan thoát ra. Tiếng nổ kinh thiên động địa kia đã khiến bọn thị vệ hồn phi phách tán, chỉ vài tên bỏ mạng nhưng cả đám dạt ra ngay. Phu thê Chính Lan múa tít vũ khí, nương theo khói bụi phi nhanh ra ngoài. Khi bọn thị vệ hoàn hồn thì hai người đã biến mất.Tên thủ lĩnh thị vệ giận dữ quát vang: - Đuổi theo. Bọn thị vệ ùn ùn chạy đi lấy ngựa, chia nhau tỏa ra, cố tìm cho được Hồng Nhất Điểm. Nhưng màn đêm đã buông, che chở cho phu thê Chính Lan về đến quán trọ an toàn. Cả bọn xúm lại hỏi han. Chính Lan buồn bã kể lại việc Ngụy Trung Hiền biết rõ mối quan hệ giữa Lâm bố chánh và Trương đại học sĩ, cho người giả dạng họ Trương đoạt lấy kỳ trân và vây bắt chàng. Vô Nhân Kiếm Khách cau mày: - Nếu tại hạ không lầm thì lão già sử dụng song hoàn kia là một trong bốn đại ma đầu ở Ngũ Đài sơn. Võ công của anh em Phi Hoàn tứ lão rất lợi hại, mỗi người trong bọn đều có thể sánh với Tây Môn lão gia. Nhưng việc lão ta bị công tử giết bằng chỉ một chiêu khiến tại hạ phân vân. Thi Mạn và Tố Bình lén nhìn nhau, mỉm cười đắc ý. Chính Lan bác ngay: - Nếu vậy thì chắc là không phải Phi Hoàn tứ lão. Bản lãnh tại hạ chỉ cao hơn nhạc phụ một bậc. Thực ra, với bản lãnh hiện tại, chàng cũng khó mà đả bại lão già kia một cách mau chóng được. Chẳng qua đối phương không ngờ chàng có đến hơn hoa giáp công lực và thanh thần kiếm Long Tuyền. Nhị ngốc ấp úng hỏi: - Đại ca, nay thiên niên Hà Thủ Ô đã mất, chúng ta còn ở lại đây làm gì nữa? Chính Lan cười nhạt: - Phen này ta đến kinh sư cốt là để giết lão cẩu thái giám Ngụy Trung Hiền, dẫu chết cũng chẳng từ nan. Ba ngươi cứ trở về Trường An trước đi. Ba gã ngốc sợ hãi im lặng, chẳng dám mở miệng nữa. Thiết Xuyên gật gù: - Quả là một ý tưởng tuyệt diệu. Nhưng trước hết phải vào hoàng cung xem bệnh tình Sùng Trinh thế nào cái đã. Tây Môn Tố Bình trổ tài Gia Cát: - Sáng mai, chúng ta cố gắng điều tra cho ra tư dinh của quan thái y, bắt cóc lão và tướng công hóa trang thành lão mà vào cung. Mạn muội sẽ theo chàng để chuẩn bệnh cho hoàng thượng. Chính Lan lắc đầu: - Ý của ta lại khác, thiên tử lâm bệnh tất thái y phải túc trực trong cung, không được về nhà, làm sao bắt được lão? Đêm nay ta và Thi Mạn sẽ đột nhập tử cấm thành. Thiết Xuyên mỉm cười: - Hoàng cung rắc rối như mê trận, biết thánh thượng nằm ở đâu mà tìm? Chính Lan dịu giọng: - Tiêu nhạc phụ từng làm viên ngoại Lang bộ lễ vài năm, người đã chỉ dẫn rõ ràng từng đường đi nước bước. Long nhan bị bệnh tất phải nằm ở cung Càn Thanh, phía sau tử cấm thành. Tố Bình lo lắng: - Nếu vậy bọn thiếp cũng đi theo, lỡ tướng công gặp rắc rối còn có người tương trợ. Thị vệ trong cung đông như kiến cỏ, thiếp chẳng an tâm chút nào. Chính Lan đồng ý: - Thế cũng được, chư vị cứ nép bên ngoài thành, khi nào nghe tiếng hú thì vào giải vây. Đầu canh hai đêm ấy, bốn người nai nịt gọn gàng, toàn thân hắc y, đi bọc vòng ngoài để đến mạn tây thành. Hán Trung Tam Ngốc quá nặng nề, không vượt nổi bức tường thành cao ba trượng nên phải ở nhà. Chưa vào đông mà tiết trời lạnh lẽo, vầng trăng rằm mờ nhạt, ẩn hiện sau lớp mây mù. Nửa canh giờ sau, bọn Chính Lan đã có mặt dưới chân Nguyệt Đàn, rồi từ đó tiến vào thành. Bắc Kinh có năm đàn để thiên tử tế lễ, đó là Nhật, Nguyệt, Thiên, Địa, Thần Nông. Nhật đàn ở hướng đông. Nguyệt đàn ở hướng tây, Địa đàn ở hướng bắc, còn Thiên đàn và Thần Nông đàn tọa lạc song song với nhau ở hướng nam trong phạm vi ngoại thành và hai bên đường trục chính bắc nam. Bốn người lần lượt vượt tường thành, tường hoàng thành, đến được phía sau Tử Cấm Thành bên kia tường chính là Ngự Hoa Viên. Vườn Thượng Uyển này nằm ngang sau lưng tẩm cung, có diện tích độ hơn ngàn trượng vuông. Ở đây, rất nhiều đình, đài, lâu, các, kỳ hoa, dị thảo. Ngoài những loại cây của miền bắc Trung Hoa, còn tùy theo từng thời tiết từng mùa, trồng xen những bồn hoa, cây cảnh phương nam, quan lại các địa phương đã gửi về những tảng đá quí, hình thù kỳ tú nên giả sơn của Ngự Hoa Viên đặc sắc hơn bất cứ vườn cảnh nào. Nhưng muốn vào được bên trong, trước hết phải vượt qua một hòa nước rộng đến mười sáu trượng, và bức tường sơn màu đỏ tía cao ba trượng. Hào nước này dài sáu dặm, bao bọc cả chu vi tử cấm thành. Chính Lan ngần ngại hỏi Thi Mạn: - Nương tử liệu có đủ hơi lặn một mạch sang bờ bên kia không? Miêu nữ mỉm cười: - Tướng công yên tâm, thiếp ở cạnh bờ sông Tây Giang nên rất thông thạo thủy tính. Chính Lan quay sang dặn dò Thiết Xuyên và Tố Bình. Nhưng Tiểu Linh Thố đã phụng phịu nói: - Đã vào đến đây, lẽ nào tướng công không cho thiếp và Hách huynh theo với. Ở ngoài này chỉ thêm nóng ruột mà thôi. Chính Lan mỉm cười chịu thua: - Thôi được, chúng ta cùng đi vậy. Bốn người tụt xuống mép nước, lặn một hơi đến bụi lau lẻ loi ở bờ bên kia. Chỗ này còn cách chân tường thành đến bốn trượng. Trên mặt thành, bọn cấm quân qua lại tuần tra rất nghiêm chỉnh. Bọn Chính Lan nhẫn nại ngâm mình dưới dòng nước lạnh buốt, chờ đợi cơ hội. Và khi vầng trăng bị đám mây đen che phủ, họ lao nhanh về phía chân tường. Chính Lan vận khẩu quyết chữ hấp, thi triển Bích Hổ công trườn lên. Thân hình chàng dán sát vào mặt tường dựng đứng, thoăn thoắt bò đi như thằn lằn. Đến đầu tường, chàng bám chặt lấy mép, và ba người ở dưới lần lượt đu theo sợi dây chão cột ở thắt lưng Chính Lan mà lên. Họ không đủ công lực để thi thố Bích Hổ công. Lát sau, cả bốn người đều đã bám được cánh bức tường, hồi hộp chờ đợi đám cấm quân cầm đuốc đi qua. May thay, chúng chỉ dương mắt nhìn xuống mặt hào nước nên không phát hiện ra có bốn thân hình đang treo lơ lửng dưới chân. Chờ ánh đuốc xa hẳn, bọn Chính Lan nhanh chóng vượt tường nhảy xuống bên trong. Chính Lan đi trước một bước êm ái hạ thân và đỡ lấy ba người kia. Trăng lại mờ đi, giúp họ an toàn vượt qua vườn hoa, tiến gần đến mặt sau Càn Thanh cung. Chính Lan mừng rỡ nhận thấy một phòng ở mé hữu còn sáng đèn, và vọng ra tiếng ho khúc khắc. Không phải là hướng gió nên cánh cửa sổ tròn phía Bắc vẫn mở để phòng bệnh nhân được thông thoáng. Bốn người áp sát, ẩn mình sau bụi hoa mà nhìn vào. Trên long sàng là một chàng trai tuổi độ mười tám, gương mặt anh tuấn nhưng xanh xao, nhợt nhạt. Ngồi ở mép giường là một mỹ nhân trẻ trung, đang bóp chân cho người bệnh. Đứng hầu là viên thái giám già và quan thái y. Còn cuối phòng là bảy vị đại thần đang ngồi dật dựa trên ghế, mắt nhắm, mắt mở. Chính Lan truyền âm bảo Thi Mạn: - Làm sao đuổi được hết đám người kia đi? Thi Mạn mỉm cười, hé miệng thổi đàn cổ trùng vào phòng và lâm râm niệm chú. Lát sau, trừ Sùng Trinh hoàng đế, mười người kia đều nhất loạt hắt hơi loạn cả lên. Không phải một cái mà là hàng chục cái liên tiếp. Sùng Trinh mở mắt bực bội phán: - Các khanh hãy lui cả ra, đừng ở đây quấy nhiễu trẫm nữa. Ta không muốn nghe bất cứ tiếng động nào. Thế là cả bọn vội rời phòng, hoàng hậu cũng vậy. Họ đi rất xa vì cơn hắt hơi xổ mũi vẫn tiếp tục hoành hành. Trong phòng chỉ còn lại một mình thiên tử. Chính Lan và Thi Mạn lập tức lao qua khung cửa sổ vào trong. Sùng Trinh kinh hãi nhưng vì nghĩ mình sắp chết vì bệnh hoạn, nên không sợ hãi nữa. Ông giương mắt nhìn hai người áo đen chờ đợi. Thi Mạn chạy ra gài chặt cửa chính, đứng trấn giữ, còn Chính Lan phục xuống nói: - Khải tấu thánh thượng! Thảo dân là người của quan bố chánh sứ ty Tích Giang Lâm Hưng, được lệnh mang thiên niên Hà Thủ Ô về đây dâng thiên tử. Sùng Trinh mừng rỡ, gượng ngồi lên rồi hỏi: - Lâm bố chánh là bằng hữu thâm giao của đại học sĩ Trương Nguyên Khải, sao tráng sĩ không giao kỳ trân cho Trương khanh đem vào cung? Chính Lan buồn rầu đáp: - Khải tấu thánh thượng! Thảo dân theo lời Lâm bố chánh, đến tìm Trương đại học sĩ. Nhưng tiếc rằng họ Trương đã biến mất và trong nhà toàn là tay chân của Ngụy Trung Hiền. Lão đã cho người giả làm Trương học sĩ, đoạt lấy bảo vật rồi. Sùng Trinh đau đớn nói: - Lão cẩu tặc kia quả là ác độc, phen này mạng trẫm khó vẹn toàn. Chính Lan nghiêm giọng: - Muôn tâu! Thảo dân và chuyết thê đều tinh thông y đạo, dẫu không có thiên niên Hà Thủ Ô cũng sẽ tận lực chữa trị cho long nhan. Sùng Trinh như người rơi xuống nước với được phao, phấn khởi đáp: - Hay lắm, các khanh vào được chốn này chắc đều là bậc kỳ nhân, dị sĩ. Trẫm xin phó thác sinh mạng cho hai khanh. Chính Lan đứng lên, gọi Thi Mạn đến bên long sàng. Hai người thăm mạch, hỏi han bệnh nhân đủ điều. Sùng Trinh nhìn rõ gương mặt kiều diễm của Liễu Thi Mạn, thoáng giật mình. Ông không ngờ chốn giang hồ lại có một mỹ nhân như vậy. Thi Mạn cau mày bảo: - Tướng công, thiếp cho rằng thánh thượng có triệu chứng trúng độc. Nàng đến bên chiếc kỷ nhỏ cạnh giường, bưng chén thuốc chỉ còn ít cặn lên ngửi và nếm thử. Thi Mạn nở nụ cười đắc ý: - Tướng công, trong chén thuốc này chứa một chất độc có tên là Bế Tâm Hoa Tinh. Đối phương đã cho thánh thượng uống mỗi ngày một lượng rất nhỏ, gây triệu chứng suy tim. Đủ trăm ngày thì tâm mạch bế tắc. Sùng Trinh giận dữ thều thào: - Không ngờ Từ thái y cũng là tay chân của Ngụy Trung Hiền. Ông run rẩy hỏi lại: - Thế hai khanh có giải được chất độc này không? Thi Mạn mỉm cười: - Với linh đan của dân phụ và Thái Chân khí công của chuyết phu thì chất độc kia cũng chẳng đáng gì. Nàng lấy ra bảy viên thuốc màu xanh, trao cho bệnh nhân. Chính Lan vội rót nước. Sùng Trinh nhăn mặt, cố nuốt những viên thuốc đắng như hoàng liên kia. Thi Mạn bảo Chính Lan: - Tướng công mau dùng chân khí trục hết chất độc ra. Nàng bước đến khung cửa sổ phía sau vẫy Thiết Xuyên và Tố Bình. Hai người kia mau mắn lao vào, cùng Thi Mạn trấn giữ cửa trước. Sùng Trinh nhận ra Tố Bình xinh đẹp không thua gì Thi Mạn, hiếu kỳ hỏi Chính Lan: - Họ là ai vậy? Chàng cười đáp: - Nam là bằng hữu, nữ là tiện nội. Sùng Trinh vui vẻ nói: - Sao khanh không hề khai danh tánh và giới thiệu họ với trẫm cho dễ xưng hô? Chính Lan đành nói tên cả bọn. Hai khắc sau, chất độc đã bị luồng chân khí hùng mạnh của Chính Lan trục hết ra ngoài cơ thể. Y phục Sùng Trinh ướt đẫm và vô cùng hôi hám. Nhưng ông nghe toàn thân thư thái, hơi thở điều hòa, sức khỏe sung mãn, liền hoan hỷ phán: - Ơn cứu tử, trẫm chẳng dám quên. Khanh muốn được phong vương, trẫm cũng sẵn sàng chuẩn tấu. Chính Lan nghiêm giọng: - Bọn thảo dân vì giang sơn và bách tính nên mới liều thân vào đây. Chỉ mong thánh thượng sớm bình phục, chấn chỉnh triều cương, bảo vệ được sơn hà và tạo phúc cho lê thứ. Thánh thượng làm được như vậy là đã đến đáp được chút công lao của bọn thảo dân rồi. Sùng Trinh cảm kích phán: - Trẫm vô cùng mến mộ lòng trung quân ái quốc của chư khanh, nhưng Ngụy Trung Hiền nắm binh quyền trong tay, lại có rất nhiều cao thủ võ lâm dưới trướng, trẫm muốn tiêu diệt lão cũng khó. Chính Lan mỉm cười: - Bọn thảo dân sẽ bắt Ngụy Trung Hiền về cho thánh thượng xử tội. Xin long nhan chuẩn bị lực lượng để trấn áp vây cánh của lão ta, nếu không sẽ chẳng kịp trở tay. Sùng Trinh vui mừng khôn xiết, mở ngăn tủ long sàng, lấy ra mảnh ngọc bài, trao cho Chính Lan: - Âu Dương hiền khanh hãy giữ kỹ Thiên Tử ngọc bài này để điều động cấm quân của Ngũ Thành Binh Mã Ty, họ là lực lượng trung thành với quả nhân. Chính Lan miễn cưỡng nhận lấy và cáo từ. Bỗng Thi Mạn cười khúc khích: - Tướng công, thiếp nghĩ đến đoạn đường trở ra mà ngán ngẩm. Bơi qua hào nước lẫn nữa chắc bọn thiếp chết cóng mất. Sùng Trinh vội phán: - Để trẫm bảo Trần công công đưa các khanh ra bằng cửa Thần Võ, hà tất phải khổ cực như vậy? Chính Lan trầm giọng: - Nếu thánh thượng tin rằng bọn cấm quân giữ được bí mật thì chẳng sao. Sùng Trinh cười mát: - Họ đều là con cháu họ Chu, một lòng trung thành với trẫm. Ông bước ra cửa, cao giọng gọi: - Trần khanh! Mười người lúc nãy chạy đến, thấy thiên tử đã hoàn toàn khang kiện, họ sửng sốt không nói lên lời. Sùng Trinh mỉm cười: - Trẫm đã đỡ nhiều, các khanh đang cảm lạnh không nên vào phòng, chỉ mình Trần khanh là đủ rồi. Lát nữa trẫm sẽ gọi sau. Chín người kia đã hết hắt hơi sổ mũi nhưng chẳng dám kháng chỉ, quay bước trở ra. Lát sau, Trần công công xuất hiện ở cửa Thần Võ phía bắc tử cấm thành. Lão ta cao giọng: - Thánh thượng giáng chỉ. Truyền cho các ngươi phải nhắm mắt lại, khi nào ta cho phép mới được mở ra. Trần công công chăm sóc Sùng Trinh từ thuở lọt lòng nên trở thành người thân tín nhất. Lời lão nói ra chính là kim ngôn của thiên tử. Vì vậy hơn trăm tên cấm quân đều vội nhắm nghiền mắt lại, dù lòng vô cùng thắc mắc. Nửa khắc sau, Trần công công mới nói: - Thôi đủ rồi, hãy mở mắt ra và quên chuyện này đi, nếu còn muốn sống. ° ° ° Sáng hôm sau, bọn Chính Lan đi ngược trở lại hướng nam, đem xe chở thuốc giấu trong rừng, rồi ra quan đạo chờ đợi. Đến trưa thì đoàn nhân mã của Phi Ưng tiêu cục đến nơi. Bảy người trở thành tiêu sư theo họ vào thành. Cửa thành thường ngày chỉ có cấm quân, nhưng hôm nay lại thêm mấy chục tên cẩm y thị vệ. Chúng giương đôi mắt cú vọ, quan sát từng lữ khách, thỉnh thoảng chặn lại tra xét. Nhưng chúng quá quen với Phi Ưng tiêu cục nên không hạch hỏi gì. Qua khỏi Thiên đàn, bọn Chính Lan tách ra đi về mé tả. Đây là khu vực sầm uất nhất Bắc Kinh, tập trung hầu hết những cơ sở kinh doanh đồ sộ. Đường đi lót đá bằng phẳng, rộng đến ba mươi bước chân, ngang dọc thẳng thớn như ô bàn cờ. Dinh thự của Cửu Thiên Tuế nằm ở đây chứ không phải trong cung, dù Ngụy Trung Hiền là thái giám. Trong suốt sáu năm tại vị, Minh Quang Tông đã giao hết chính sự cho họ Ngụy. Vì vậy uy quyền của lão ta chẳng thua gì thiên tử. Ngụy Trung Hiền công khai sử dụng long xa và nghi trượng của hoàng đế mà chẳng ai dám nói gì trừ các bậc trung thần trong Đảng Đông Lâm. Họ Ngụy thích được nịnh hót. Một hôm có kẻ gọi lão là Ngụy Thiên Tuế, lão rất hoan hỷ, trọng thưởng cho người ấy. Hoàng đế là Vạn Tuế, còn Trung Hiền là Cửu Thiên Tuế, quả là hợp tình hợp cảnh. Từ đó, lão bắt mọi người phải xưng hô như thế. Quang Tông băng hà, Hy Tông lên ngôi được một năm thì chết. Em Hy Tông là Tư Tông kế vị tức là Sùng Trinh. Biết tân vương muốn diệt trừ mình, Ngụy Trung Hiền không dám ở lại trong cung, ra ngoài cung mua cơ ngơi thật lộng lẫy và đồ sộ. Từ nơi này, lão điều khiển ba cơ quan mật vụ là Đông Xưởng, Tây Xưởng và Nội Xưởng. Cao thủ của tam xưởng tuyển lựa từ hàng ngũ cẩm y thị vệ và giới hắc đạo võ lâm, bản lãnh rất cao cường. Sùng Trinh yếu thế, nhất thời không làm gì được Ngụy Trung Hiền, nếu vọng động khó mà toàn mạng. Ngược lại họ Ngụy là thái giám nên chẳng thể nào cướp ngôi vua. Trong lịch sử Trung Hoa, bọn hoạn quan nhiều lần lũng đoạn triều chính nhưng chưa có kẻ nào dám lên ngôi hoàng đế. Thứ nhất là sẽ bị cả thiên hạ chống lại. Thứ hai, thái giám không thể có con thì truyền ngôi cho ai? Nhắc lại, bọn Chính Lan được Hách Thiết Xuyên hướng dẫn vào khu vực có phủ đệ của Ngụy Trung Hiền để quan sát tình hình. Họ Hách ở Sơn Tây gần với Bắc Kinh, thường lui tới nên khá thông thuộc đường lối. Nhưng Ngụy phủ nằm dựa góc phía tây nam của nội thành, chiếm một vùng rộng đến vài chục mẫu, tường cao ba trượng, được canh gác nghiêm mật, thật khó mà vào được. Vô Nhân Kiếm Khách thở dài nghĩ đến vấn đề khác: - Phòng ốc, biệt viện hàng trăm gian thế kia, biết họ Ngụy ở đâu mà tìm? Quả đúng vậy, có vào được cũng chỉ vô ích mà thôi. Bảy người vừa đi vừa quan sát chẳng dám dừng lại vị sợ bị nghi ngờ. Cả bọn tìm khách điếm hạng trung nghỉ ngơi, chờ đêm xuống. Trong bữa cơm chiều Chính Lan nghiêm giọng: - Ngụy phủ phòng vệ sum nghiêm, nhân thủ đông đảo, chúng ta có vào cũng chẳng ích gì. Đêm nay, chư vị ở ngoài, mình ta vào là đủ. Nếu ta thất bại mọi người hãy trở lại Nam Kinh dọn nhà đi nơi khác ẩn dật. Thi Mạn biến sắc: - Sao lúc trước tướng công đồng ý cho bọn thiếp cùng chung hoạn nạn? Chính Lan mỉm cười: - Trước đây, ta định chặn đường tấn công Ngụy Trung Hiền khi lão rời phủ đệ vào triều dự chầu sáng. Nhưng nay Sùng Trinh hoàng đế cho biết họ Ngụy cáo ốm, đã lâu không vào cung nữa. Giết hổ tại hang chẳng dễ dàng gì, một mình ta còn có cơ hội thoát thân hơn. Tố Bình nháy Thi Mạn rồi thản nhiên nói: - Tướng công dạy rất phải, bọn thiếp xin tuân mệnh. Thiết Xuyên trầm giọng: - Giết Ngụy Trung Hiền thì công tử khó mà thoát ra được. Chi bằng bắt sống lão làm mộc che thân thì tốt hơn. Chính Lan biết gã lo lắng cho mình. Chàng cảm động đáp: - Hay lắm, tại hạ sẽ xách cổ Ngụy Trung Hiền chạy thẳng vào Tử Cấm Thành, giao cho thiên tử. Bàn bạc một hồi lâu, cả bọn mới về phòng nghỉ ngơi. Theo thói quen, Chính Lan ngồi điều tức một lúc. Từ ngày rời miếu Thần Hổ đến nay, chàng không có dịp tọa công. Nay đã đến lúc sinh tử, chàng phải kiểm tra kinh mạch lần cuối để bước vào cuộc chiến. Dược lực của món Thất Xà Hà Thủ Ô hoàn toàn dung hoá, chân khí vô cùng sung mãn, cuồn cuộn từ đan điền tỏa đi khắp nơi. Chính Lan thấy vậy, thử đưa nội lực đi theo đường lối khẩu quyết lớp thứ tám của Thái Chân tâm pháp. Chàng kinh ngạc nhận ra mình hoàn thành rất dễ dàng, liền luyện ngay sang lớp thứ chín. Hai khắc sau, quanh thân Chính Lan tỏa ra màn sương mỏng màu xanh biếc, và từ mũi chàng, hai luồng khí bắn ra dài hơn gang, rồi lại thu vào. Thi Mạn, Tố Bình mừng rỡ ôm nhau nhưng chẳng dám gây tiếng động. Lát sau, Chính Lan xả công, nghiêm giọng hỏi họ: - Phải chăng hai nàng đã cho ta uống nhánh thiên niên Hà Thủ Ô? Thiên Tử khỏi bệnh, kỳ trân xem như bị Ngụy Trung Hiền đoạt mất, hai nàng chẳng cần phải dấu giếm nữa. Tố Bình mỉm cười đáp: - Lúc ấy, tướng công thọ thương trầm trọng, bọn thiếp đành phải ngộ biến tùng quyền. Hoàng đế có chết cũng mặc kệ lão, bọn thiếp chỉ mong sao cứu được chàng thôi. Chính Lan cảm động, bước đến ôm cả hai vào lòng và thắc mắc: - Vậy ra nhánh kỳ trân bị cướp kia là giả hay sao? Thi Mạn cười rúc rích: - Thưa phải, chỉ có hai miếng mỏng ở đầu là thực mà thôi. Chính Lan nhớ lại lời Hách Thiết Xuyên, biết lão già sử dụng song hoàn đã giả làm Trương học sĩ kia chính là một trong Phi Hoàn tứ lão ở Ngũ Đài sơn. Như vậy còn đến ba lão nữa và chàng khó mà địch nổi. Chàng từng nghe nói về tuyệt kỹ Phi Hoàn của bốn anh em nhà họ Lý đất Sơn Tây. Những chiếc vòng đen tuyền kia làm bằng Huyền Thiết rất cứng rắn, lại thêm hàng răng cưa sắc bén có thể chặt gãy cả đao kiếm thông thường. Nối với vòng thép là một sợi thiết luyện dài nửa trượng. Vì vậy, xa gần đều đánh được cả. Ai đã lọt vào vòng vây của Phi Hoàn trận thì khó mà thoát thân. Cảm giác tử vong đè nặng không làm cho Chính Lan sợ hãi. Mà chỉ khiến chàng gần gũi với thê thiếp. Có thể đây là lần cuối cùng được kề cận họ. Chính Lan dìu hai mỹ nhân đến giường, nhìn họ với ánh mắt đắm đuối và có đôi chút xót xa. Thi Mạn và Tố Bình nào hiểu được ẩn tình, háo hức chìm vào hoan lạc. ° ° ° Giữa canh ba, dưới ánh trăng cuối thu khi mờ khi tỏ, bảy bóng người tiến về phía Ngụy phủ. Tường cao nhưng không dày nên bọn quân canh chẳng thể đi lại trên đầu tường, nhưng cứ cách năm trượng lại có một địch lâu và chắc chắn bên trong tường có những toán tuần tra đi lại suốt đêm. Bọn Chính Lan ẩn nấp sau bụi cây, cách chân tường mười trượng. Nghe tiếng chó sủa, Thi Mạn thì thầm: - Tướng công phải rắc lên người nhiều Vô Hương phấn mới mong qua mặt được bọn lang khuyển kia. Nàng rút gói bột phấn rải lên đầu cổ, y phục của Chính Lan. Nãy giờ mai phục, bọn Chính Lan đã phát hiện qui luật canh phòng của bọn thị vệ địch lâu, cứ ba khắc đổi gác một lần. Ánh trăng vừa khuất sau đám mây, trời đất vụt tối sầm, Chính Lan lao như tên bắn về phía chân tường. Trong khoảng khắc này, nhãn tuyến của bọn thị vệ mờ đi vì sự thay đổi ánh sáng đột ngột, chẳng thể nhận ra có người vượt bãi đất trống. Gia dĩ, khinh công của Chính Lan nhanh như thiểm điện, lướt đi tựa cánh dơi đêm, chỉ ba bước nhảy đã đến nơi. Chàng lập tức dán mình vào mặt tường, bò lên địch lâu trên đầu. Sinh tử huyền quang được đả thông, công phu Bích Hổ công càng thêm lợi hại. Chính Lan mau chóng vượt độ cao ba trượng, một tay bám mép gạch, một tay xạ đạo huyết tuyến điểm hồng vào á huyệt gã thị vệ, rồi mới nhảy vào. Chàng không giết mà điểm thêm một số huyệt đạo khiến thân thể gã cứng đơ như tượng gỗ, vẫn đứng hiên ngang. Vừa lúc toán tuần tra phía dưới đi ngang qua, thấy người trên địch lâu vẫn đứng gác nghiêm chỉnh, chẳng hề có chút hoài nghi. Chờ chúng đi khỏi, Chính Lan nhảy xuống đất chứ không dùng cầu thang gỗ. Cũng như bao nhiêu dinh cơ khác, phủ họ Ngụy chẳng thể thiếu vườn hoa chung quanh những kiến trúc. Nhờ vậy, Chính Lan có vật che chắn mà tiến vào. Trên đường đi, chàng gặp rất nhiều chó dữ nhưng chúng chỉ ngửi rồi bỏ đi. Loại Vô Hương phấn này là dược vật độc đáo của người Miêu dùng trong những cuộc săn bắt mãnh thú. Đến cọp beo còn không phát hiện được thì lũ chó có đáng gì? Chính Lan vượt gần hết hoa viên thì thấy một dãy nhà dài. Có lẽ đây là nơi ở của bọn gia nhân, tỳ nữ. Chàng quyết định bắt một người để hỏi cho rõ chỗ ở của Ngụy Trung Hiền, nếu cứ lần mò mãi đến sáng cũng chẳng tìm ra. Bỗng cánh cửa gỗ trước mặt hé mở và một ả tiểu tỳ thắt bím bước ra. Cô bé che miệng ngáp, liếc quanh rồi đi thẳng vào vườn hoa, cởi giải quần ngồi xuống. Té ra ả mắc tiểu mà làm biếng xuống bếp nên xả đại ở nơi này.Tiểu tỳ trút xong bầu tâm sự, khoan khoái đứng lên, định trở lại phòng ngủ. Nào ngờ một bàn tay đã bịt chặt lấy miệng và hơi thép lạnh toát ra cần cổ. Chính Lan lạnh lùng nói: - Nếu nàng chịu khai ra ngọa phòng của Ngụy Trung Hiền, ta hứa sẽ không sát hại. Ả tiểu tỳ mới mười lăm, mười sáu nên rất sợ chết, run rẩy khai liền. Chính Lan hiểu rõ đường đi nước bước và điểm huyệt ngủ, giấu ả vào bụi hoa rậm nhất. Chính Lan tiến về khu trung tâm, nơi có chín cây hòe cao ngất. Nhờ khinh công tuyệt thế và Vô Hương phấn, chàng qua mắt được bọn thị vệ tuần tra cùng đàn chó. Đến nơi, Chính Lan dừng lại quan sát tòa biệt viện kia. Chín cây hòe nằm cách nhau đều đặn phía trong bức tường vây thấp. Cổng vào bằng song thép rèn nhưng chẳng có ai canh giữ cả. Nếu không được ả nữ tỳ chỉ dẫn, chẳng bao giờ Chính Lan lại nghĩ rằng đây là nơi nghỉ ngơi của Ngụy Trung Hiền. Bỗng từ trên tán cây rậm rạp vọng ra tiếng cú rúc rất thê lương. Chính Lan giật mình, dương cặp mắt tinh tường nhìn lên. Nhờ vậy, chàng phát hiện có hàng trăm con ác điểu, biểu hiện cho điều xấu kia, đang đậu im lìm trên chín cây hòe. Chính Lan cau mày suy nghĩ, toát mồ hôi nhớ ra một đại ma đầu có tên là Miêu Ưng Lão Tổ, ẩn cư trên ngọn Quân Đô sơn phía bắc đế đô. Đàn chim cú của lão Phương Kỳ Du vô cùng thông linh và lợi hại. Móng và lông của chúng được tẩm kỳ độc, chỉ sướt da là chết. Những cú đập cánh của chúng cũng tỏa ra độc khí làm mê man kẻ địch. Chính Lan cân phân lợi hại, nghiến răng tung một trái Đảo Thiên thần đạn lên nóc tả tiểu viện. Một tiếng động kinh hồn làm chấn động cả đêm trăng. Mái nhà sụp xuống, lửa bốc lên ngùn ngụt nhưng chẳng hề có bóng người nào chạy ra. Vậy là đối phương đã dùng kế không thành, dụ chàng vào bẫy. Tuy nhiên, hỏa khí cũng đạt được kết quả là khiến đàn ác điểu sợ hãi, bay đi tán loạn. Chính Lan vừa ném xong thần đạn đã lướt nhanh về phía hữu, nhảy lên một cây cổ thụ cách đám cháy chừng tám trượng. Lúc này, Ngụy phủ nào động như ong vỡ tổ, đèn đuốc sáng trưng, bọn thị vệ kéo đến đông như kiến. Chúng bủa ra khắp nơi, lùa đàn chó tìm kiếm hung thủ. Chính Lan kiên nhẫn nằm im trên tán cây rậm rạp, chờ Ngụy Trung Hiền lộ diện. Nhưng lão cẩu thái giám kia chẳng hề ló mặt ra, chỉ có bốn lão già xuất hiện. Ba lão già áo xanh tay cầm cặp vòng thép chính là Phi Hoàn tam lão. Lão thứ tư cao gầy, mặc đạo bào trắng, trên vai đậu một con chim ưng lông đỏ pha vàng. Đôi mắt diều dữ tợn và chiếc mũi cong kia đã nói lên lai lịch của Miêu Ưng Lão Tổ Phương Du Kỳ. Tên đội trưởng thị vệ chạy lại báo cáo: - Bẩm tứ vị lão gia, bọn tiểu nhân đã cho linh khuyển lục soát khắp nơi nhưng chẳng hề thấy giấu vết hung thủ. Miêu Ưng Lão Tổ đảo mắt nhìn quanh, chợt chú ý đến cây cổ thụ cao vút kia. Lão cười nhạt, thì thầm với Hỏa Ưng. Con vật lao vút về phía tán cây nơi Chính Lan đang ẩn nấp. Chàng đã thấy Hỏa Ưng bay về phía mình, liền lộn người xuống phía dưới tung chân quặp lấy cành cây, nhờ vậy qua mắt được linh điểu. Nó bay trở về đậu trên vai chủ nhân. Miêu Ưng Lão Tổ thất vọng cao giọng bảo bọn thị vệ: - Chắc đối phương đã kịp thoát ra ngoài, các ngươi phải tích cực tuần tra, không được lơ là. Đám thị vệ dạ vang, tản ra. Lão Tổ và Phi Hoàn tam lão quay gót đi về hướng nam. Chính Lan lập tức bám theo, hy vọng họ sẽ dẫn chàng đến chỗ ẩn nấp của Ngụy Trung Hiền. Quả đúng như vậy, nửa khắc sau bốn người kia rẽ vào một tòa tiểu viện. Nơi này cũng giống hệt như hàng trăm kiến trúc khác, chẳng có gì đặc biệt cả. Chính Lan thầm thán phục cơ trí của lão cẩu thái giám kia. Hèn gì họ Ngụy không khuynh đảo cả triều đình? Miêu Ưng Lão Tổ đẩy cửa bước vào. Chính Lan chờ đủ nửa khắc mới dám vào theo. Chàng rút thanh trủy thủ mỏng như lá lúa, đút vào khe cắt then. Vũ khí này không có tên nhưng vô cùng sắc bén, và đã là vật tùy thân mấy chục năm của Hoàng Hạc Tú Sĩ. Then sắt đứt rồi, Chính Lan nhẹ nhàng lách vào trong. Chàng giật mình nhận ra tòa tiểu viện này hoàn toàn không có vách ngăn phòng, trống trơn chẳng một bóng người. Chính Lan đoán ngay trong này phải có tầng ngầm. Chàng bò trên mặt sàn, nghiêng tai lắng nghe, đến góc trong cùng đột nhiên phát hiện có tiếng người trò truyện. Chính Lan đưa tay vuốt mặt sàn, tìm ra khe của nắp hầm. Chàng cắm lưỡi trủy thủ vào khe, lê dần đi để tìm then cài. Cuối cùng, lưỡi trủy thủ dừng lại, Chính Lan dồn chân khí vào lưỡi thép. Cắt đứt then sắt một cách êm ái. Vuông cửa hầm bật lên, để lộ cầu thang đi xuống. Tiếng người trò truyện rõ mồn một. Chứng tỏ Ngụy Trung Hiền đang có mặt ở nơi này. Chính Lan mau chóng vượt mười ba bậc thang gỗ, ẩn vào chỗ tối. Cách cách chàng vài trượng là bọn Miêu Ưng Lão Tổ và một lão già béo phị, mắt híp. Sùng Trinh hoàng đế là người có tài họa đạo nên đã phác họa chân dung kẻ phản thần để Chính Lan nhận diện. Chàng biết mình chẳng thể nào địch lại bốn lão đại ma đầu kia, nhưng lòng đã xem nhẹ chuyện sống chết nên không chùn bước. Chính Lan chỉ tiếc một điều rằng chàng chỉ mang theo có một trái Đảo Thiên thần đạn và đã sử dụng rồi. Trái cuối cùng đang nằm trong tay Tây Môn Tố Bình. Giờ đây, Chính Lan chỉ còn cách liều mình giết cho được Ngụy Trung Hiền chỉ bằng một chiêu, sau đó phó mặc cho số mệnh. Chàng tưởng niệm lần cuối đến bóng hình người thân, dồn toàn lực vào thanh Long Tuyền kiếm, lao vút về phía chiếc bàn bát tiên. Bốn lão nhân đều là ma đầu thành danh, phản ứng cực kỳ thần tốc, lập tức vung chưởng chặn đường. Vì vậy, Chính Lan không đạt được nguyện vọng của mình, cố giết cho được Ngụy Trung Hiền, Miêu Ưng Lão Tổ nhanh tay đẩy ngã Cửu Thiên Tuế nên lão thoát chết, chỉ mất cánh tay tả. Lão cẩu thái giám kêu gào như heo bị thọc huyết. Chính Lan phun vòi máu vào mặt Phương Kỳ Du, vung kiếm chém liền. Bốn lão ma đầu vây chặt Chính Lan, quyết chẳng để chàng đến gần Cửu Thiên Tuế. Sáu chiếc vòng đen nhánh bay ra, tấn công thượng hạ, tả hữu của Chính Lan. Chàng múa tít bảo kiếm đánh bạt Phi Hoàn và đưa tả thủ đón chiêu chưởng của Lão Tổ. Chưởng kình chạm nhau nổ lùng bùng, khóe miệng Chính Lan lại ứa máu. Chàng biết mình không đủ sức, đành bỏ ý định sát hại Ngụy Trung Hiền, toàn tâm đối phó với bốn lão ác ma. Thanh Long Tuyền kiếm dệt quanh thân chàng, chặn đứng những đợt tấn công của phe đối phương. Phi Hoàn đại lão rít lên: - Hồng Nhất Điểm, mối thù của tứ đệ, đêm nay ngươi phải trả thôi. Sáu chiếc vòng thép vây chặt Chính Lan tấn công tới tấp, chẳng cho chàng một cơ hội phản công. Lâm nguy bất loạn, Chính Lan dở pho Thái Chân kiếm pháp đối phó. Miêu Ưng Lão Tổ đã nhanh chóng lướt ra phía ngoại, chặn đứng đường thoái lui của đối phương. Lão liên tục dở pho Miêu Ưng Thần Thức, phối hợp chưởng trảo tập kích Chính Lan. Xét về cán cân lực lượng thì chàng thua chắc, nhưng còn một yếu tố mà phe đối phương chẳng ngờ đến, đó là việc Chính Lan không sợ chết. Ngược lại, bốn lão ác ma đến với Ngụy Trung Hiền vì lợi lộc, nên chẳng bao giờ chịu bán mạng mình. Chính Lan khẳng khái đi vào tử địa, chính khí ngời ngời, làm tăng thêm sức mạnh. Chàng nghiến răng xuất chiêu Hiểu Phong Tàn Nguyệt, lao vào Phi Hoàn nhị lão Lý Kim Trì. Hoàng Hạc Tú Sĩ danh lừng vũ nội chẳng phải vì công lực thông thần, mà trước tiên, nhờ kiếm pháp ảo diệu tuyệt luân. Chính Lan dồn hết công lực vào chiêu kiếm, quyết lấy mạng nhị lão để giảm bớt áp lực. Nếu không chàng khó mà duy trì được lâu hơn. Nhị lão múa tít song hoàn, cố chống chọi chiêu kiếm lăng lệ kia. Ba lão còn lại cũng vội tấn công tả hữu, hậu tâm để hỗ trợ. Lý Kim Trì không đỡ nổi chiêu kiếm thần kỳ, ngực thủng năm lỗ, hồn về chín suối. Nhưng lưng Chính Lan cũng lãnh một chưởng của Miêu Ưng Lão Tổ và hai vết thương gây ra bởi Phi Hoàn. Lớp cương khí thái chân đã bảo toàn được phủ tạng nhưng da thịt rách toang, đau đớn vô vàn. Chính Lan hít một hơi chân khí, lao vào người thứ ba trong Phi Hoàn tứ lão. Chàng xuất chiêu Thúy Phong Như Thốc bảo kiếm hóa thành ngàn mũi tên thổi vào cơ thể đối phương. Với hơn sáu mươi năm công lực, khí thế của kiếm chiêu tựa như cơn bão biển Đông. Tam lão Lý Tú Khanh rú lên thảm khốc, ôm ngực trái lăn ra. Tất nhiên Chính Lan cũng phải trả giá, lưng chàng trúng thêm một chưởng và hai vòng thép nữa. Lúc này, máu miệng Chính Lan ứa ra không ngớt, chàng quay ngoắt lại, nhảy xổ vào Miêu Ưng Lão Tổ. Phương Kỳ Như nghe lạnh gáy, có cảm giác như mình đang đối phó với quỉ dữ. Lão dồn toàn lực vào song chưởng để đón chiêu kiếm mãnh liệt. Nhưng con người không biết sợ chết kia vẫn lao đến như cơn lốc. Chính Lan đã dùng đến chiêu Tinh Hà Lộ Khởi, thân ảnh hòa vớI kiếm quang, như cánh có giữa bầu trời, bay vào ngực họ Du. Miêu Ưng Lão Tổ liên tiếp vỗ ra những đạo chưởng kình hung hãn. Cố chặn đối phương lại. Lão thấy rõ Chính Lan trúng chưởng phun ra từng vòi máu, nhưng chàng vẫn kiên cường lướt tới. Kiếm ảnh trùng trùng như sao trời uy hiếp bốn phương tám hướng. Lão Tổ hồn phi phách tán, phiêu thân đào tẩu. Nhưng mũi Long Tuyền kiếm đã kịp rạch một đường dài từ vai trái xuống sướn phải. Lão Tổ hự lên, quay lưng chạy mất. Còn lại Chính Lan với Phi Hoàn đại lão Lý Hiểu Lộ. Lão mỉm cười đanh ác, vì thấy đối phương toàn thân đẫm máu, lưng chàng nát bét vì thương tích, thân trước đẫm máu đào vì chưởng kình. Chính Lan lảo đảo, cơ hồ đứng không vững, trong khi đại lão vẫn còn nguyên vẹn. Lý Hiểu Lộ cười hăng hắc: - Khá khen cho Âu Dương tiểu tử, một mình chống lại bốn tay đại cao thủ. Nhưng giờ đây sức mỏi hơi tàn, liệu ngươi còn sính cường được chăng? Nói xong, lão múa tít song hoàn xuất chiêu sát thủ quyết lấy mạng Chính Lan. Chàng mất máu quá nhiều, chân khí cạn kiệt, nhếch mép cười chấp nhận số mệnh. Trong lúc tối hậu, Chính Lan mơ hồ nhớ đến khẩu quyết của chiêu Nam Thiên Nhị Thức, vung kiếm đánh đại. Chàng điểm liền tám mươi mốt nhát vào màn hắc quang, nào ngờ đắc thủ. Đại lão trúng một kiếm vào ngực phải, rú lên đau đớn, quay lưng đào tẩu. Chính Lan sững sờ, không ngờ chiêu Lạc Nhật Lân Đầu(10)lại lợi hại vô song như vậy. Chàng hít một hơi chân khí điểm huyệt chỉ huyết, uống liền bảy viên linh đan, rồi ngất ngưởng bước về phía Ngụy Trung Hiền. Lão đã mê man bất tỉnh vì bị chặt cụt cả cánh tay tả. Chính Lan nén đau, bồng lão rời mật thất, đi lên mặt đất. Chàng ngờ ngàng nhận ra khắp Ngụy phủ đén đuốc sáng trưng, tiếng ngựa hí vang trời. Nơi nơi xảy ra cuộc chiến giữa bọn thị vệ áo vàng và đám cấm quân. Theo kế hoạch chàng đã bàn với Sùng Trinh hoàng đế, thì khi nào chàng bắt được, hoặc giết được Ngụy Trung Hiền thì quân của Ngũ Thành Binh Mã Ty mới tiến vào Ngụy phủ. Vậy mà tại sao họ lại khởi sự sớm hơn dự định? Chính Lan sờ lại thắt lưng, phát giác không còn Thiên Tử ngọc bài, sau cơn ái ân nồng nhiệt với hai ái thê, chàng đã không để ý đến vật ấy. Có lẽ Thi Mạn và Tố Bình đã dùng ngọc bài điều động quan quân khi thấy chàng đi quá lâu. Chính Lan thầm cảm kích, vì nếu họ không làm như vậy, chàng khó có thể thoát khỏi nơi này. Chính Lan dồn hết sức tàn. Loạng choạng ôm Ngụy Trung Hiền bước đi. Chỉ được vài mươi trượng, chàng kiệt lực khụy xuống. Nhưng có một bóng người đã lao đến đỡ đần, đó là Liễu Thi Mạn. Nàng cố nén lo âu thét vang: - Đã bắt được Ngụy Trung Hiền. Dứt lời, nàng vực Chính Lan dậy, nức nở gọi: - Tướng công, tướng công. Chính Lan mỉm cười chìm vào cơn mê.
Âu Dương Chính Lan Tác Giả:Ưu Đàm Hoa -- o -- Hồi 10 Tuyệt xứ phùng sinh vân mộng giản Vu hồ hào kiệt hội cố nhân Nguồn:vnthuquan Mời đọc Chính Lan thọ thương quá trầm trọng, mê man bất tỉnh suốt nửa tháng trời chẳng hề mở mắt, cơ thể chàng ngày càng hư nhược, hơi thở mong manh. Biết chàng khó thoát chết, bọn Thi Mạn gạt nước mắt đưa chàng trở lại Nam Kinh, may ra còn kịp gặp vợ con. Sùng Trinh hoàng đế rộng rãi cấp cho chiếc xe tốt nhất của hoàng cung, ban thưởng rất nhiều ngọc ngà, châu báu, và cho năm mươi giáp sĩ hộ tống. Vô Nhân Kiếm Khách và Hán Trung Tam Ngốc thay nhau làm xà ích. Thi Mạn, Tố Bình túc trực trong xe chăm sóc bệnh nhân. Hai nàng khóc đến nỗi mắt sưng húp, hoa dung thiểu não, hốc hác hẳn đi. Trời đã vào đông, tuyết rơi mù mịt và lạnh thấu xương. Cũng may đây là xe của vua nên thùng xe rộng rãi, tiện nghi, có cả lồng than hồng để sưởi ấm và nấu nướng. Chính Lan chỉ uống toàn nước cháu nấu với sâm già. Thi Mạn cố cứu trượng phu, cho chàng dùng rất nhiều linh đan. Nhờ vậy, bệnh tình không nặng nề thêm, hy vọng Chính Lan cầm cự được cho đến lúc về nhà. Giữa tháng mười một, đoàn người vượt Từ Châu, đi vào đoạn đèo Vân Mộng. Nơi đây cách xa Từ Châu hơn hai trăm dặm nên không sợ Đào Hoa cung tập kích. Hơn nữa, việc Chính Lan thọ thương được giữ kín, chắc họ Thang không dám chặn đường. Sắp đến ngọ mà bầu trời xám xịt, gió bấc lồng lộng gào thét, thổi trận mưa tuyết vào lưng lữ khách xuôi nam. Bọn Thi Mạn lầm lũi tiến lên đèo. Mé tả là sườn núi Vân Mộng sơn, mé hữu là vực thẳm Vô Để Uyên nổi tiếng. Chưa có ai xuống được đáy vực mà sống sót để trở lên. Nếu ném một tảng đá thì phải rất lâu sau mới nghe tiếng động vang lên. Gần đến đình đèo, bất ngờ từ đám loạn thạch mé tả, hàng ngàn mũi trường tiễn xé gió bay vút đến, cắm vào cơ thể bọn cấm quân. Hán Trung Tam Ngốc múa tít bảo đao hộ thân và che chở cho xe ngựa. Tố Bình vội tung trái Đảo Thiên thần đạn cuối cùng vào bọn mai phục. Đồng thời, Hách Thiết Xuyên quất đôi ngựa phi nước đại. Ba gã ngốc lao theo, còn đám cấm quân chết không sót một tên. Nhưng lên đến đỉnh đèo, Thiết Xuyên nhận ra đường quan đạo đã bị chặn ngang bởi một thân cây lớn, chẳng thể nào vượt qua được. Gã thở dài tuyệt vọng, khi thấy hàng trăm tên cao thủ áo trắng dương cung chĩa vào xe. Có tiếng cười ghê rợn vang lên: - Để xem bọn ngươi làm cách nào thoát khỏi tuyệt lộ này? Người nói chính là Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân. Tố Bình đứng trên càng xe mắng liền: - Lão có giỏi thì đơn đấu với tướng công của ta, sao lại bày trò mai phục đê tiện như vậy? Nhưng nàng không dọa được lão vì cạnh họ Thang còn có một lão già mũi két, mắt diều, trên vai, có con chim ưng lông đỏ. Lão ta chính là Miêu Ưng Lão Tổ ở Quân Đô Sơn. Ngoài ra còn có Phi Hoàn đại lão Lý Hiểu Lộ và Thái Sơn Phủ Quân Vũ Diên. Bốn người ấy liên thủ thì dù Chính Lan có khoẻ mạnh cũng không mong thoát chết. Hách Thiết Xuyên kiến văn rộng rãi nên nhận ra ngay lai lịch của đối phương. Gã hạ giọng bảo Tố Bình: - Nàng và Thi Mạn cố cõng Chính Lan đào tẩu, ta và ba anh em họ Hồ sẽ đoạn hậu cho. Tố Bình cười nhạt: - Có chạy cũng không thoát, thà liều mình đánh trận cuối cùng rồi chết chung với trượng phu còn hơn. Chính Lan đang sắp chết, nàng cũng chẳng còn ham sống nữa. Bỗng trong xe Thi Mạn thẳng thốt kêu lên: - Tướng công đã hồi tỉnh. Có lẽ tiếng nổ long trời của trái Đảo Thiên thần đạn đã đánh thức chàng. Chính Lan thều thào hỏi: - Chuyện gì vậy Mạn muội? Thi Mạn sa lệ đáp: - Chúng ta bị Đào Hoa cung chủ và Thái Sơn Phủ Quân vây chặt trên đỉnh đèo Vân Mộng. Chắc là lành ít dữ nhiều. Tố Bình đã chui vào xe, ôm lấy Chính Lan nức nở: - Phen này chúng ta cùng dắt tay nhau xuống suối vàng mà thôi. Chính Lan lặng lẽ suy nghĩ, nghiêm giọng bảo: - Hai nàng mau truyền cho ta ít chân khí và bảo Thiết Xuyên nói đối phương chờ một lát. Thi Mạn vén màn xe nói với họ Hách, còn Tố Bình dựng Chính Lan ngồi lên, truyền công lực vào mệnh môn. Phe Đào Hoa cung đã nắm chắc phần thắng nên chẳng vội gì, chấp nhận chờ đợi. Nửa khắc sau, Chính Lan đã hồi phục được hai thành, dắt tiểu kiếm vào bụng, tay xách Long Tuyền kiếm bước xuống xe. Chàng đã nhận ra Miêu Ưng Lão Tổ và Phi Hoàn đại lão nhưng vẫn thản nhiên. Chính Lan cao giọng bảo Thái Sơn Phủ Quân: - Vũ tiền bối, kỳ hạn ba tháng chưa đến sao tiền bối lại có mặt nơi này? Phủ Quân cười mát: - Bần đạo nghe nói công tử sắp chết nên đến xem thử thế nào. Phi Hoàn đại lão gầm lên: - Hồng Nhất Điểm, ngươi hãy đến mạng ba em của ta. Chính Lan rút bảo kiếm ra khỏi vỏ, chậm rãi tiến lên, đối diện bốn lão ác ma. Họ đang đứng dưới chân sườn núi, vì vậy, vị trí của Chính Lan rất gần bờ vực. Chàng giơ cao thanh kiếm và nói: - Đây chính là thanh Long Tuyền bảo kiếm thời thượng cổ. Nếu các vị đồng ý tha cho sáu người thân của tại hạ thì sẽ được thanh kiếm này và sinh mạng của Âu Dương mỗ. Nếu không, Lan này sẽ hủy ngay bảo vật. Dứt lời, chàng chém mạnh vào tảng đá cạnh đấy. Lửa xanh bắn ra và tảng đá nứt đôi, mà thanh kiếm không hề sứt mẻ. Đào Hoa cung chủ và Thái Sơn Phủ Quân đều là kiếm khách nên hoan hỉ phi thường. Nhưng Lý Hiểu Lộ gạt phăng: - Lão phu có đôi phi hoàn này là đủ rồi, chẳng cần bảo kiếm làm gì. Chính Lan mỉm cười: - Lão đến đây để lấy mạng ta chứ đâu phải vì sáu kẻ vô can kia? Phủ Quân và Đào Hoa cung chủ bàn bạc chớp nhoáng. Vũ Diên quay sang phủ dụ đại lão, rồi nghiêm giọng: - Được, bần đạo đồng ý tha cho thân quyến của ngươi. Nhưng ngươi phải thề sẽ để kiếm lại và nhảy xuống vực tự sát. Thi Mạn, Tố Bình kinh hãi kêu lên: - Tướng công, bọn thiếp thà chết chứ không bỏ chàng. Thiết Xuyên cũng nói: - Tại hạ chẳng phải là kẻ ham sống, công tử bất tất phải làm như vậy. Chính Lan nghiêm giọng: - Nếu các ngươi không nghe lời ta mà đi ngay thì chẳng còn là thê thiếp, bằng hữu gì nữa hết. Hai nàng đang mang thai, sao không lo giữ gìn hương hỏa cho ta mà lại tính chuyện chết oan? Thi Mạn và Tố Bình sửng sốt vì họ nào có mang thai nghén gì? Thiết Xuyên cũng biết điều ấy, lặng người suy nghĩ. Chính Lan giận dữ quát: - Đi mau đi, một năm sau quay lại cúng tế là đủ rồi. Đừng để ta phải nói nhiều. Tố Bình và Thi Mạn quì xuống vái tạ: - Kiếp này không còn sum họp, xin hẹn kiếp lai sinh chắp cánh uyên ương. Ba gã ngốc cũng sụp xuống khóc ồ ồ: - Đại ca đi đi, bọn tiểu đệ hứa sẽ đốt cho đại ca thật nhiều giấy tiền vàng bạc, để dưới âm ty có rượu mà uống. Thiết Xuyên thì ngửa cổ cười bi thiết: - Hảo bằng hữu, hẹn sớm gặp lại nhau. Y nghĩ sau này sẽ liều mình báo phục, dẫu chết cũng vui lòng. Chính Lan quay sang nói với phe đối phương: - Tại hạ thề có hoàng thiên rằng sẽ trao bảo kiếm và tự sát, ngay sau khi bọn họ đi khỏi. Mong chư vị mở đường cho. Người võ lâm rất trọng lời thề, nhất là một bậc đại hiệp khách như Chính Lan. Đào Hoa cung chủ lập tức phất tay ra hiệu nhường đường. Bọn cung thủ liền kéo thân cây sang một bên để xe và ngựa đi qua. Hai mỹ nhân cứ mãi quay lại, lệ tuôn như suối, luôn miệng gọi tướng công. Chờ họ đi xa, Chính Lan tra kiếm vào vỏ, đặt xuống đất rồi tung mình nhảy vào khoảng không mù mịt của vực thẳm. Vô Để Uyên có nghĩa là vực không đáy, nhưng mỗi khi đông đến tuyết phủ dày hàng trượng. Chính Lan đã tính đến điều này nên mới dám liều mình để cứu thê thiếp, bằng hữu. Hy vọng dẫu mong manh nhưng còn hơn cả đám chết trong tay kẻ địch. Chính Lan dồn hết công lực vào đôi chân để chịu đựng va chạm. Nhưng từ độ cao hơn trăm trượng rơi xuống, dù tuyết dày và xốp, xương đầu gối của chàng cũng sai khớp. Thân hình Chính Lan lún sâu vào lớp tuyết, ngập cả đầu. Chàng cố nén đau, dùng tay bới tuyết trườn lên. Sửa lại khớp xương xong, chàng thở phào lướt lên miệng vực, chỉ thấy tuyết bay mù mịt mà thôi. Đã quyết tìm cái sống trong cái chết nên Chính Lan chẳng hề tuyệt vọng. Chàng nghỉ ngơi một lúc rồi bắt đầu thám hiểm đáy vực. Tiểu kiếm cầm sẵn trong tay, Chính Lan chậm rãi bước đi. Dù còn rất yếu đuối nhưng nhãn quang chàng vẫn tinh tường, nhờ tác dụng của thiên niên Hà Thủ Ô. Nếu không có kỳ trân này, chàng đã chết từ lâu rồi. Thi Mạn tinh thông chất độc nhưng y thuật không cao minh lắm. Nàng nóng ruột nên cho Chính Lan uống quá nhiều linh đan và sâm quí, đâu biết rằng trượng phu luyện Qui Tức BảoTâm đại pháp nên cơ thể tự nhiên giảm hoạt động để phục hồi. Thấy mạch yếu, hơi thở mong manh, nàng cứ ngỡ phu tướng sắp chết. Chính tiếng nổ của hỏa khí đã khiến chàng rời khỏi trạng thái đông miên của môn tuyệt kỹ hãn thế kia. Nhắc lại, Chính Lan đi nửa vòng đáy vực, bỗng phát hiện một cửa hang rộng rãi. Chàng mừng rỡ vì đã có chỗ ẩn thân. Dù sao cũng chẳng thể ở mãi dưới cơn mưa tuyết lạnh lùng. Chàng biết mình phải tịnh dưỡng mấy tháng mới mong phục hồi công lực để thoát khỏi chốn này. Nước uống thì đã có tuyết, vật thực là lũ độc xà, cóc nhái nhung nhúc khắp nơi. Nếu hang khô ráo, chàng có thể tạo ra lửa mà sưởi ấm và nướng thịt. Chính Lan thận trọng bước vào, ngạc nhiên trước vẻ đẹp kỳ ảo của hàng ngàn thạch nhũ trên trần và sàn hang. Có những vú đá hình thành từ trăm vạn năm trước, trên dưới giao nhau thành cây cột khổng lồ. Cuối hang là một khoảng rộng bằng phẳng, khô ráo, và kỳ diệu thay có cả dấu vết con người. Chàng lờ mờ nhận ra trong góc động có chiếc giường đá, liền bước đến xem thử. Vật đầu tiên chàng nhận thấy là hộp gỗ đựng bùi nhùi và cục đá lửa lớn bằng nắm tay. Chính Lan phấn khởi đập chúng vào nhau liên tục, tiếp tục quan sát, chàng phát lại phát hiện một đống cành khô ở chân vách động. Lát sau, đống củi mục cháy bùng lên, tỏa ra sức nóng, làm ấm lòng kẻ cô đơn. Chính Lan trở ra ngoài bắt vài con độc xà và nhặt thêm ít củi nữa. Tuy chúng ướt át nhưng vẫn có thể cháy được. Còn việc làm thịt rắn thì chàng đã học của Liễu Thi Mạn. Ánh lửa soi sáng cảnh vật, giúp Chính Lan nhận ra vách đá cuối động được khoét sâu một mảng vuông vức, cách mặt đất gần trượng. Và trong khoảng trống ấy, một xác người ngồi ngay ngắn theo tư thế kiết đà. Chàng hiếu kỳ rút cây củi đang cháy đến nơi quan sát, thấy da thịt của tử thi đã khô quắt lại sát xương mặt, chỉ có hàng râu năm chòm và mái tóc đen nhánh là vẫn chỉnh tề. Chính Lan là người trung hậu, thủ lễ nên sụp xuống lạy ba lạy, thầm khấn: - Vãn bối vô tình lạc bước vào đây, quấy nhiễu chốn yên nghỉ của tiền bối, xin anh linh lượng thứ cho. Lúc quì lạy, chàng đã đặt cây đuốc củi khô xuống sàn. Ánh lửa chập chờn nhưng cũng đủ soi sáng chân vách trước mặt. Nhờ vậy, Chính Lan nhìn thấy bốn chữ “sàng hạ hữu kinh.” Chỗ này rất tối tăm, chữ viết lại nhỏ, nếu chàng không qùy lạy, khó mà thấy được bốn chữ ấy. Chính Lan hiểu ngay dưới chiếc giường đá kia có lưu lại chân kinh, bí kíp gì đó. Chàng xách đuốc đến nơi xem xét, và tìm ra một khung cửa nhỏ, vuông vức, mỗi bề độ hơn gang. Chính Lan lôi ra một chiếc rương đồng, tiết diện gần bằng khung cửa đá, dài khoảng hai gang. Rương không có khóa nhưng quanh nắp được gắn kín bằng nhựa cây. Chính Lan dùng tiểu kiếm cạo sạch lớp keo ấy, mở nắp rương ra. Vòn vẹn chỉ có một phong thư, vài nén vàng, một quyển kinh và tấm áo tơ mềm mại, đen bóng. Chính Lan mở phong thư, phát hiện thêm một chiếc mặt nạ da người rất tinh xảo. Chàng đặt sang một bên, đọc thư trước đã. “Lão phu là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan, người đất Thiểm Tây, từng phò tá Vương Dương Minh đánh giặc Trần Hào. Nhưng quen thói tiêu dao tự tại, lão phu không nhận chức tước mà tiếp tục ngao du, hành hiệp. Trong ba mươi năm ngang dọc, với pho Cuồng Lãng chưởng pháp, lão phu tiêu diệt không biết bao nhiêu ác nhân trong võ lâm, nổi danh Báo Ứng Lang Quân. Đến năm sáu mươi tuổi, lão vô cùng hối hận, lão phu giết lầm một người vô tội, nhảy xuống Vô Để Uyên tự sát. Nào ngờ trời xanh chưa cho chết nên lão phu ở lại nơi này sám hối. Chẳng nỡ để tuyệt học thất truyền, lão phu lưu lại bí phổ cho đời sau. Chỉ mong kẻ hậu sinh thụ giáo tuyệt kỹ này trở thành Báo Ứng Lang Quân đệ nhị đại, tạo phúc cho giang hồ. Nhưng nhớ đừng giết oan người vô tội? Trọng Phú Lan di chí.” Hoàng Hạc Tú Sĩ Ngũ Di Nghiệp chỉ say mê kiếp thuật nên thờ ơ với quyền chưởng. Vì vậy, Chính Lan cũng chẳng khá hơn. Sau ba năm phiêu bạt, chạm trán nhiều cường địch, chàng thức ngộ rằng chưởng pháp lợi hại chẳng kém gì kiếm thuật. Chàng hiếu kỳ dở chân kinh ra đọc. Bỗng một ý niệm bừng lên khiến chàng choáng váng. Phải chăng Báo Ứng Lang Quân đã tìm ra lối xuất nhập nên mới có giấy mực mà viết di thư và quyển bí kíp này? Lão nhảy xuống vực thẳm tự sát thì làm gì có văn phòng tứ bảo? Chàng hồi hộp lướt nhanh từng trang, đến cuối mới thấy lời ghi chú: “Sau mười năm rèn luyện chân kinh, đủ sức đánh ra trăm chưởng liên tục thì có thể phối hợp với khinh công mà trở lên miệng vực.” Chính Lan vô cùng thán phục bản lãnh của Báo Ứng Lang Quân, quyết cố công rèn luyện pho Cuồng Lãng thần chưởng. Chàng đã có hơn sáu mươi năm công lực, chẳng cần phải mất một khoảng thời gian lâu như vậy. Phần đầu của bí phổ là tâm pháp Đồng Tử Nhất Nguyên Công. Chính Lan đã có vợ nên chẳng thể luyện được, lật qua phần khẩu quyết Cuồng Lãng chưởng pháp và Ngự Phong thân pháp. ° ° ° Hơn năm sau, trên bến đò bờ bắc sông Hoài xuất hiện một chàng trai tuổi tam tuần, mặt đẹp như ngọc. Bộ trường bào màu xanh có vẻ cũ kỹ nhưng tấm áo choàng tơ đen trên vai óng ánh như mới dệt xong. Đặc biệt, chàng ta không hề có vũ khí hay hành lý, đôi giầy vải dưới chân đã rách mũi, lộ cả ngón ra. Chàng ta bước vào tửu quán, gọi một mâm cơm nhỏ và bầu rượu. An xong chàng nhâm nhi chén rượu, nhìn về phía rừng liễu xanh mướt đằng đông. Trời đã vào xuân, tiết trời ấm áp, hoa cỏ tốt tươi và cảnh vật đầy sức sống. Bỗng chàng ta tức cảnh sinh tình, ngâm nga nho nhỏ bài Ức Dương Liễu(11)của Bạch Cư Dị. “Tằng tài dương liễu Giang Nam ngạn, Nhất biệt Giang Nam lưỡng độ xuân. Giao ức thanh thanh giang ngạn thượng, Bất tri phan chiết hà thị nhân?”(12) Giọng ngâm quen thuộc kia là của Âu Dương Chính Lan. Chàng đã thoát khỏi vực sâu và tái xuất giang hồ với dung mạo của Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan. Thật là tấu xảo khi chàng và Lang Quân lại trùng tên. Chàng đang trên đường trở lại Nam Kinh sum họp với gia đình. Mất nén vàng mà Báo Ứng Lang Quân để lại không đủ để mua ngựa cỡi, chàng đành đi bộ và ngủ ngoài trời. Sau hơn năm giam mình dưới đấy vực sâu tĩnh mịch, chàng đã có thời gian để suy nghĩ về kiếp nhân sinh, đạo tâm sáng láng hơn xưa nên ung dung trong mọi hoàn cảnh. Thấy thực khách lục tục đứng lên, Chính Lan biết đò ngang sắp sang đến, bèn tính tiền rồi bước ra. Chàng mừng rỡ khi thấy Sơn Đông Tử Phòng Từ Kính Nhan. Lão đang đứng chắp tay sau lưng, buồn bã nhìn dòng nước chảy về Đông. Phải chăng lão u sầu về cái chết của Hồng Nhất Điểm? Thân phụ Từ lão đã thọ ân cứu mạng của Hoàng Hạc Tú Sĩ. Vì vậy, lão theo di mệnh, một lòng trung thành với đồ đệ của Tú Sĩ. Nhưng Chính Lan bỗng nhận ra Từ Kính Nhan không đứng một mình, quanh lão còn có bảy tám cao thủ nữa. Y phục của họ đều giống nhau, đều là võ phục xanh nhạt, lưng thêu đóa hoa sen trắng. Chàng thận trọng dừng bước, không đến nhận người quen nữa. Lát sau, đò ngang cặp bến, Sơn Đông Tử Phòng cùng đám thanh y võ sĩ dẫn ngựa lên thuyền. Lạ lùng thay, chẳng ai dám đồng hành với họ. Thuyền rời bờ, Chính Lan nghe người sau lưng nói với giọng căm hận: - Bọn Bạch Liên giáo ngày càng lộng hành, thật chướng tai gai mắt. Từ khi Hồng Nhất Điểm đại hiệp tạ thế đến nay, bọn chúng công khai khuynh đảo võ lâm, chẳng coi ai ra gì cả. Chính Lan quay lại, nhận ra người vừa nói là một chàng trai mập mạp, tuổi độ hai bốn, hai lăm, áo thư sinh vải thô, lưng đeo trường kiếm nhưng tay tả kè kè tráp gỗ. Chính Lan nghe lòng ấm lại khi thấy còn có người mến mộ mình. Chàng mỉm cười hỏi thử: - Dường như huynh đài có tác phong giống như Âu Dương công tử? Chàng trai đỏ mặt, ngượng ngùng đáp: - Tại hạ từ lâu vẫn ngưỡng mộ Âu Dương đại hiệp, cố noi gương người, ăn mặc giản dị và khổ luyện võ nghệ. Mọi người đều chê cười rằng Lâm Chấn Hạo này quá béo, chẳng thể giống được Hồng Nhất Điểm. Chính Lan nghiêm giọng: - Bắt chước hình dáng, cử chỉ sao bằng bắt chước nhân phẩm? Quí hồ một lòng giáng ma vệ đạo là đủ rồi. Lâm Chấn Hạo cười buồn: - Tiểu đệ hiếu võ nhưng chưa gặp được minh sư, bản lãnh có hạn, làm sao hiên ngang, lẫm liệt như Hồng Nhất Điểm? Chính Lan bất giác có cảm tình với chàng trai trung hậu này. Họ Lâm cũng vậy, gã vui vẻ hỏi: - Tứ hải giai huynh đệ, xin huynh đài cho tiều đệ biết tính danh? Chính Lan mỉm cười: - Tại hạ là Trọng Phú Lan. Chấn Hạo thấy chàng rách rưới, lại không hề có hành lý, đoán rằng túi đối phương đang cạn. Gã hòa nhã nói: - Tiểu đệ sẽ mướn thuyền con sang sông, không chờ đò nữa. Mong Trọng huynh cùng đi cho vui. Chính Lan nóng lòng trở về nhà nên đồng ý ngay. Đò lớn do quan lại địa phương quản lý, có thể chở được người, ngựa và xe hàng. Còn khách bộ hành, thường vượt sông bằng những chiếc thuyền câu nhỏ của đám ngư dân gần bờ, đương nhiên giá cả đắt gấp ba. Trong lúc thuyền con sang sông, Chính Lan trò truyện với họ Lâm, được biết gã quê Trường Sa, con út của một nhà đại phú, mê kiếp giang hồ nên bỏ nhà phiêu bạt đã gần năm nay. Chấn Hạo học võ của Động Đình Thần Kiếm, bản lĩnh chỉ ở vào hàng nhị lưu, tam lưu. Trong cuộc đàm đạo, Chấn Hạo tỏ rõ lòng kính ngưỡng đối với thần tượng Hồng Nhất Điểm. Chính Lan thầm hổ thẹn, bỏ qua chuyện khác: - Tại hạ mới xuất đạo nên không rõ tình hình võ lâm. Mong các hạ chỉ giáo cho. Chấn Hạo thở dài kể: - Ba tháng sau ngày Âu Dương đại hiệp nhảy xuống vực thẳm không đáy ở Vân Mộng sơn. Bạch Liên giáo dương cờ gióng trống, nhanh chóng bành trướng khắp nơi. Nghe nói giáo chủ Bạch Liên giáo là Thái Sơn Phủ Quân, còn ba chức phó dành cho Đào Hoa cung chủ, Phi Hoàn đại lão và Miêu Ưng Lão Tổ. Tháng mười năm ngoái, Âu Dương gia trang ở Nam Kinh đột nhiên phát hỏa. Quan quân kéo đến thì ba trăm mẫu rừng đã biến thành biển lửa. Chính Lan nghe như sét đánh bên tai, chết điếng người. Lâm Chấn Hạo không nhận ra, tiếp tục nói: - Cuộc hỏa hoạn đã thiêu hủy mọi dấu vết nên chẳng biết ai còn ai mất, và ai là hung thủ. Có điều, sau đó ít lâu, người ta thấy Hán Trung Tam Ngốc Hiệp, Vô Nhân Kiếm Khách, Sơn Đông Tử Phòng, Lôi Đao… xuất hiện trong hàng ngũ Bạch Liên giáo. Những cao thủ này chẳng hiểu sao lại phục vụ cho những kẻ đã đẩy Hồng Nhất Điểm xuống vực sâu? Chính Lan giật mình kinh hãi, chìm vào trong suy tưởng, cố giải thích hiện tượng quái dị kia. Chàng hiểu rõ tính tình cương liệt của Lôi Đao Hứa Hoa và Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Họ thà chết chứ không chịu nhục. Vậy điều gì đã khiến họ phải hành động như vậy? Phải chăng Bạch Liên giáo đã bắt thê tử chàng làm con tin để uy hiếp họ? Chính Lan bình tâm lại đôi chút, hỏi họ Lâm: - Các hạ có biết tổng đàn của Bạch Liên giáo nằm ở đâu không? Chấn Hạo lắc đầu: - Đạo quán của Bạch Liên giáo nằm rải rác khắp ba phủ Sơn Đông, Giang Tô, Huy Châu, nhưng chẳng ai biết rõ bộ phận đầu não ở địa phương nào. Chính Lan thất vọng, thẫn thờ bảo: - Vậy biết tìm ở đâu bây giờ? Lâm Chấn Hạo sửng sốt hỏi: - Chẳng lẽ Trọng huynh lại muốn đối đầu với Bạch Liên giáo? Chính Lan cười mát: - Đúng vậy, tại hạ là Báo Ứng Lang Quân, lẽ nào lại để bọn tà ma lộng hành? Võ lâm cũng như triều đình, đều có người chép sử. Chỉ khác ở chỗ là chốn giang hồ lưu giữ sử sách bằng cách truyền khẩu. Sự tích trong vòng trăm năm vẫn được các bô lão ghi nhớ và kể lại cho bọn tiểu bối. Vì vậy, danh tiếng của Báo Ứng Lang Quân vẫn chưa phai mờ. Trọng Phú Lan chỉ hơn Hoàng Hạc Tú Sĩ có ba mươi tuổi, thành tích lẫy lừng, lẽ nào lại bị lãng quên? Phàm là người học võ, bao giờ cũng được sư phụ kể lại cho nghe những truyền thuyết võ lâm, đặc điểm các phái, cũng như qui củ giang hồ. Lâm Chấn Hạo cũng trải qua quá trình ấy nên nhận biết ngay. Gã ngẩn người ấp úng: - Nhưng Báo Ứng Lang Quân đã chết được hơn bảy chục năm rồi mà? Chính Lan gật đầu: - Đúng vậy, tại hạ là đời thứ hai. Chấn Hạo nhìn chàng nghi ngại: - Nếu quả là đúng thế thì là phúc lớn của võ lâm. Nhưng hiện các hạ có sánh nổi với Âu Dương đại hiệp hay không mà dám đụng đến Bạch Liên giáo? Lúc này thuyền con đã bắt kịp, đi song song với đò ngang. Chính Lan loáng thoáng nghe một tên trong đám giáo đồ Bạch Liên giáo nói: - Mẹ kiếp! Chiếc đò quỉ quái này bơi chậm như rùa! Nếu chúng ta không đến được Vu Hồ kịp thời hạn sẽ bị phó giáo chủ phạt nặng đấy! Tên thứ hai cười nhạt: - Đến sớm hơn chưa chắc đã là điềm tốt. Bọn Bố Y hội phòng thủ rất chặt chẽ, vào được cũng phải tốn máu xương không ít. Chính Lan hiểu rằng bọn này đang trên đường đến căn cứ của Bố Y hội ở Vu Hồ. Chàng thắc mắc, không hiểu ai là người lãnh đạo của họ, quyết định đến tận nơi xem thử. Hơn nữa, họ vốn là thuộc hạ của chàng, chẳng thể để đám hào kiệt ấy lâm nguy được. Thuyền con vượt lên, cặp bờ nam trước đò ngang. Chính Lan vòng tay nói: - Cảm tạ Lâm các hạ đã cho quá giang. Xin cáo biệt. Lâm Chấn Hạo vội nói: - Trọng huynh định đi đâu? Chính Lan nghiêm giọng: - Bạch Liên giáo đang chuẩn bị tấn công căn cứ Bố Y hội ở Vu Hồ. Tại hạ muốn đến đấy giúp họ một tay. Lâm Chấn Hạo là con nhà đại phú, thế mà không chịu an hưởng cảnh giàu sang cũng do lòng hiếu sự và khao khát dọc ngang. Nay gặp được một nhân vật bí ẩn, gã chẳng thể bỏ qua, liền ấp úng nói: - Mong Trọng huynh cho tiểu đệ theo cùng. Tiểu đệ tuy bất tài nhưng không biết sợ chết là gì. Chính Lan cảm động, gật đầu: - Nếu các hạ đã có lòng giáng ma vệ đạo, tại hạ xin tuân mệnh. Chấn Hạo phấn khởi kéo Chính Lan vào Hoài Nam trấn mua hai con tuấn mã. Họ phi nước đại về hướng tây nam, cố đến Vu Hồ thật sớm. Ba hôm sau, đúng ngày rằm tháng ba, hai người đến trấn Vu Hồ. Ăn tối xong, Chấn Hạo mua ít đồ nhắm và rượu ngon, gởi ngựa rồi cùng Chính Lan đến khu rừng đào cạnh hồ. Chính Lan phi thân một vòng xem phe Bạch Liên giáo đã có mặt chưa. Nhưng có lẽ chưa đến ngày nên chẳng có mống nào. Chàng yên tâm trở lại với Chấn Hạo. Chính Lan dõi mắt nhìn hòn đảo giữa hồ, đoán rằng sau đám liễu dày kia là căn cứ của Bố Y hội. Từ bờ đến đảo xa hàng dặm, muốn thông báo cũng chẳng có cách nào. Chính Lan đành nằm lại chờ đợi. Anh tà dương mùa xuân đỏ rực, xuyên qua cành là soi rõ gương mặt thuần hậu, thiện lương của Chấn Hạo. Chàng cảm thấy gã chính là hình ảnh mình ngày mới xuất đạo. Chính Lan chợt nảy sinh ý định tài bồi cho họ Lâm. Chàng hỏi gã: - Lâm lão đệ sở đắc những tuyệt học nào? Chính Hạo bẽn lẽn đáp: - Tiểu đệ học được sáu thành pho Hoa Sơn kiếm pháp và vài chiêu quyền cước. Động Đình Thần Kiếm vốn là đệ tử tục gia của phái Hoa Sơn. Chính Lan mỉm cười: - Lão đệ thử trổ tài cho ta được mở rộng thêm kiến văn. Thấy chàng xưng hô thân mật, Chấn Hạo dạn dĩ hơn, rút kiếm thi triển ba mươi sáu chiêu kiếm. Phái Hoa Sơn phát nguyên từ phái Toàn Chân, cũng nằm trong hệ thống đạo giáo. Thái Chân kiếm pháp của Hoàng Hạc Tú Sĩ là tuyệt học của Mã Ngọc chân nhân đại đệ tử của Vương Trùng Dương giáo chủ của Toàn Chân đáng được coi là võ thuật chính thống. Vì vậy, Chính Lan thấy hết những sơ hở của pho Hoa Sơn kiếm pháp kia. Dẫu sao, thiên bẩm của Hách Đại Thông sư tổ phái Hoa Sơn cũng không bằng đại sư huynh Mã Ngọc. Hai người cùng ở trong Toàn Chân thất tử nhưng căn cơ khác xa nhau. Tuy Mã Ngọc chết sớm, giáo phái tan tác nhưng sở học của ông vẫn được lưu truyền cho đến đời Chính Lan. Chàng bèn chỉ điểm, bổ khuyết những khiếm khuyết cho Lâm Chấn Hạo. Chàng kiên nhẫn giảng giải từng chiêu, nên đến nửa đêm kiếm thuật của họ Lâm đã hoàn bị hơn trước. Gã mừng rỡ khôn cùng, say sưa luyện tập dưới ánh trăng vàng, cuối canh tư mới chịu lăn ra ngủ. Sáng ra, Chấn Hạo chạy bổ vào trấn mau mấy mòn điểm tâm và rượu thịt, cung phụng cho sư phụ. Gã nhìn chàng bằng cặp mắt kính ngưỡng: - Trọng huynh quả là bậc kiếm tiên, tiểu đệ học nửa ngày đã tiến bộ bằng mấy năm khổ luyện. Thực ra, gã chẳng quá lời, vì kiếm pháp có quá nhiều sơ hở, luyện hoài cũng thế thôi. Động Đình Thần Kiếm mở võ trường để mưu sinh, đệ tử đông hàng trăm, làm sao dạy cho chu đáo từng người được? Chính Lan thấy họ Lâm to béo phục phịch, bộ pháp chậm chạp, liền dạy cho gã một đoạn khẩu quyết trong pho Hoàng Hạc Khinh Vân, chàng dùng kiếm đánh dấu những bộ trên mặt đất bắt gã phải bước theo càng lúc tốc độ càng nhanh. Lâm Chấn Hạo hiếu võ thành tật nên chuyên cần luyện đến bở hơi tai, cuối cùng cũng nắm được yếu quyết của bộ pháp. Chính Lan hài lòng bảo: - Nếu Lâm lão đệ chú tâm khổ luyện, muốn bảo toàn mạng sống cũng chẳng khó gì. Đêm xuống, trăng mười sáu trải ánh sáng trên mặt hồ, gió xuân hiu hiu làm gợn sóng, trông như hàng ngàn con rắn bạc. Chính Lan buồn bã nhìn vầng nguyệt lơ lửng trên mặt nước mênh mông, nhớ đến thê tử sống chết phương nào chưa rõ. Chàng đau lòng khôn xiết thở dài, gởi gắm nhớ thương vào bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn(13)của Trương Cửu Linh: “Hồ thượng sinh minh nguyệt Thiên thai cộng thử thì Tình nhân oán dao dạ Cảnh tịch khởi tương tư Diệt chúc liên quang mãn Phi y giác lộ ti Bất kham danh thủ tặng Hoàn tẩm mộng giai kỳ.”(14) Lâm Chấn Hạo cũng được học hành đàng hoàng nên hiểu được tình cảm của Chính Lan. Gã rụt rè hỏi: - Phải chăng Trọng huynh nhớ nhung hình bóng mỹ nhân nơi quê nhà? Chính Lan gượng cười, không đáp và bảo gã: - Lâm lão đệ, chúng ta tìm cách vào đảo thôi. Bờ hồ quá rộng, biết bọn Bạch Liên giáo đến từ hướng nào? Chấn Hạo tán thành: - Trọng huynh yên tâm. Lúc chiều, tiểu đệ đã ghé nhà lão ngư phủ hỏi mướn thuyền. Nơi ấy cách đây không xa. Hai người đi về hướng tây, lát sau đã đến một túp chòi lá ven hồ. Chấn Hạo đưa lão chủ thuyền hai chục lượng bạch ngân, vui vẻ dặn dò: - Nếu chúng ta không trở lại trả thuyền, lão cứ việc mua chiếc thuyền mới mà sử dụng. Số bạc này gấp đôi trị giá chiếc thuyền câu nên lão dân chài này rất hoan hỉ, thầm vái hai vị thượng khách chết mất xác cho xong. Chính Lan và Chấn Hạo chèo nhanh về phía hòn đảo giữa hồ. Vừa được hơn nửa chặng đường đã nghe tiếng quát tháo ở phía đông. Chính Lan chèo nhanh về hướng ấy, nhận ra hai mươi chiếc thuyền dài đang tiến đến đảo, và đang bị các cung thủ Bố Y hội bắn chặn. Ngoài tên thường họ còn dùng loại tên có quấn vải tẩm dầu ở mũi để đốt thuyền của Bạch Liên giáo. Những mũi tên ấy bay vun vút như dệt lưới, nên đã có ba chiếc thuyền bốc cháy, và mười mấy gã thanh y trúng tên, gào lên thảm khốc. Nói chung, người trên đảo nhờ thuật xạ tiễn điêu luyện đã chặn được bước tiến của đối phương. Nhưng bất ngờ nhà cửa trên đảo bốc cháy ngùn ngụt. Chính Lan than thầm, đoán rằng Bạch Liên giáo đã gài nội ứng vào Bố Y hội. Đám cháy đã khiến người trên đảo phải phân tán lực lượng để cứu hỏa. Vì vậy, phòng tuyến mỏng đi. Phe Bạch Liên giáo thừa cơ tiến lên. Chính Lan nghe tiếng chim ưng đập cánh trên cao, ngẩng đầu nhìn lên, nhận ra tám con thần điêu khổng lồ của Đào Hoa cung đang bay vút về phía đảo và sắp hạ cánh. Các cao thủ Bố Y hội vội dương trường cung bắn chặn. Nhờ vậy, mười mấy chiếc thuyền kia đến được mép đảo. Chính Lan kinh hãi đốc thúc Chấn Hạo chèo nhanh. Hai người đặt chân lên đảo thì Bố Y hội đã rút vào trung tâm cố thủ. Chính Lan nóng ruột nắm tay Chấn Hạo kéo đi như bay, tìm đến nơi đang vang lên tiếng reo hò, và lửa cháy rực trời. Cuộc chiến đang diễn ra quanh một tòa thạch thất rất kiên cố, hình dáng kỳ lạ. Nó không vuông vức mà lại được xây thành hình bát giác, tường vây bên ngoài bằng đá, chỉ thấp ngang ngực người. Nhờ có chỗ ẩn thân kín đáo, hơn trăm cao thủ Bố Y hội cầm chân được đối phương. Nhưng ở hướng chính nam, một nhóm người đang tiến lên như vũ bão. Chính Lan nhận ra Phi Hoàn đại lão và bảy lão nhân lùn của Đào Hoa cung. Hôm nay họ mặc võ phục vàng, ngực thêu đóa sen trắng lớn bằng hai bàn tay. Riêng Phi Hoàn đại lão có thêm ngân khôi trên tóc. Song hoàn và bảy thanh tiểu kiếm vun vút dệt lưới loang loáng dưới ánh lửa rực rỡ của đám cháy. Có bốn năm căn nhà gỗ gần thạch thất đang phát hỏa. Chính Lan thấy họ sắp đến gần phòng tuyến của Bố Y hội, liền gầm lên: - Có Báo Ứng Lang Quân đến đây. Dứt lời, thân hình chàng lướt tới, đánh thủng hàng ngũ Bạch Liên giáo. Song thủ chàng tung ra hàng loạt chưởng kình liên tiếp, đánh văng thân thể những gã cản đường. Tiếng gào thét rên la vang dội cả mặt hồ. Tám lão ma đầu kinh hãi quay lại chặn đánh chàng trai lạ mặt. Lý Hiểu Lộ phóng đôi song hoàn, tấn công từ xa. Chính Lan dùng thế Nhất Hạc Xung Thiên quen thuộc, bốc cao hai trượng, xuất chiêu Cuồng Lãng Trầm Chu. Không phải hai chưởng mà là mười tám đạo chưởng phong nối tiếp nhau như sóng dữ. Phép đánh khoái chưởng nhanh như chớp giật này khiến đại lão chới với, trúng liền hai đòn vào ngực, máu phun thành vòi. Bảy lão lùn Đào Hoa cung vội hợp chưởng tấn công Chính Lan. Chưởng phong có màu hồng nhạt của Đào Hoa Mê Tâm chưởng pháp bảy đạo chưởng kình hội tụ vào thân chàng, mãnh liệt như cuồng phong. Chính Lan vỗ mạnh song chưởng vào khoảng không, dùng Ngự Phong Thân Pháp bốc lên cao thêm nửa trượng nữa, thoát khỏi phạm vi của lưới chưởng, và không chờ đối phương kịp đổi hơi, chàng lao xuống xuất chiêu Thăng Thượng Hoa Phi. Ba mươi sáu đạo chưởng kình liên tiếp giáng xuống như búa bổ, vỗ trúng ngực ba lão tống hôn sứ giả. Cuồng Lãng Thần Chưởng ảo diệu ở chỗ hư thực khó phân. Trong ba mươi sáu đạo chưởng kình kia, nặng nhẹ hoàn toàn khác nhau, được đánh ra với tốc độ cực nhanh nên đối phương không tài nào phán đoán nổi. Ba lão già tội nghiệp kia rú lên thảm thiết, lăn lông lốc như trái cầu, chết không kịp trối. Bốn lão sứ giả còn lại và Phi Hoàn đại lão trợn mắt kinh hoàng trước bản lình thần sầu quỉ khốc của người lạ mặt. Họ nhảy lùi lại quát hỏi: - Ngươi là ai mà dám giả dạng Báo Ứng Lang Quân? Chính Lan cười nhạt: - Bổn nhân là đệ nhị đại của Lang Quân, có trọng trách tiêu diệt sạch bọn tà ma như lũ ngươi. Nói xong, chàng vung chưởng đánh liền. Lúc này phe Bố Y hội đã thừa thế phản công. Lâm Chấn Hạo cũng sát cánh với họ. Phe Bạch Liên giáo thiếu cao thủ chủ chốt nên bị áp đảo. Sơn Đông Tử Phòng câm như hến vung kiếm tấn công những người anh em cũ. Thanh Long Trảo Đặng Tân Dụ biết lão ta bị ép buộc nên chẳng nỡ xuống tay, chỉ tìm cách bắt sống. Cả Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy, Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật, Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều cũng có mặt ở đây. Họ Trân thấy Sơn Đông Tử Phòng đang đánh với Thanh Long Trảo, liền lén phóng một viên thiết liên tử vào huyệt Ngưu Tỵ ở đầu gối phải của lão. Họ Từ khụy xuống, bị Thanh Long Trảo điểm huyệt, vác vào thạch thất. Nhắc lại, Chính Lan dở pho Cuồng Lãng Thần Chưởng đấu với năm lão ma đã hơn trăm chiêu mà vẫn chưa giết được ai. Đối phương sợ hãi chàng nên dùng phép du đấu, tránh đòn trực diện và tấn công sau lưng. Chính Lan thầm tính toán, xông vào Phi Hoàn đại lão. Họ Lý vội nhảy lùi, để bốn lão sứ giả tập kích hậu tâm Chính Lan. Nhưng việc tấn công đại lão chỉ là động tác giả, chưởng kình rất yếu ớt. Thực lực dồn cả vào song cước đưa chàng bay ngược về sau bọn sứ giả. Với vị trí thuận lợi này, Chính Lan xuất chiêu Lãng Đả Quần Thạch, hàng loạt chưởng kình như sóng dữ vỗ vào đầu đối phương. Bốn lão lùn trúng đòn gục ngã, xương đầu vỡ vụn. Phi Hoàn đại lão hồn phi phách tán, co chân đào tẩu nhưng đã bị Chính Lan chặn đầu. Chàng cười lạnh lẽo bảo: - Lý Hiểu Lộ, trước khi nhắm mắt lão sẽ biết ta là ai. Dứt lời, chàng xuất chiêu Điệp Lãng Xuyên Sơn, chưởng kình thu gọn, nối nhau khoan vào màn hắc ảnh của song hoàn. Đôi vòng sắt bật khỏi tay đại lão, nhường đường cho một mũi tên máu bắn vào mắt lão, xuyên thủng não bộ. Công phu này đã tố cáo lai lịch của Chính Lan, nhưng họ Lý đã chết, chẳng thể khai báo với ai được nữa. Chính Lan xoay qua hỗ trợ bọn Bố Y hội kết liễu chiến trường. Hơn trăm gã đao thủ Bạch Liên giáo đều chết sạch. Bọn Thanh Long Trảo kéo đến tạ ơn tương trợ. Chính Lan nhìn những gương mặt thân quen, lòng bồi hồi xúc động. Nhưng chàng chưa dám nhận họ mà hỏi ngay: - Chư vị tìm ra kẻ nội gián đã phóng hỏa chưa? Thanh Long Trảo ngượng ngùng: - Bẩm đại hiệp chưa ạ? Chính Lan nghiêm giọng: - Nếu không tìm ra kẻ ấy thì đừng mong gì chống lại Bạch Liên giáo. Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều nghiến răng đáp: - Đại hiệp dạy rất phải, tại hạ thề sẽ lôi cổ tên khốn khiếp ấy ra ánh sáng. Chính Lan sợ Bạch Liên giáo dùng con tin để uy hiếp nên tuyệt đối không dám tiết lộ lai lịch. Trong thân phận Báo Ứng Lang Quân, chàng dễ đối phó với chúng hơn. Chàng lạnh lùng nói: - Tại hạ tình cờ đi ngang đây, thấy bọn Bạch Liên giáo đáng ghét nên ra tay tiêu diệt, giờ xin cáo biệt. Bọn Bố Y hội thấy võ nghệ của chàng còn cao siêu hơn cả Chính Lan, lòng vô cũng kính phục, hết lời cảm tạ chàng và Lâm Chấn Hạo. Họ Lâm đắc ý phi thường vì có dịp được dương danh. Đồng thời trong trận vừa qua, gã thấy bản lĩnh mình lợi hại hơn hẳn, lòng vô cùng khoan khoái. Cả năm nay gã chỉ dám trừng trị vài gã lưu manh, vô danh tiểu tốt, giờ giết được đến bảy tám tên đao thủ Bạch Liên giáo, bảo sao gã không hoan hỉ? Chấn Hạo vui vẻ nói: - Tại hạ và Trọng huynh đã thề sẽ quét sạch tà ma, nếu chư vị biết tổng đàn của Bạch Liên giáo ở đâu xin chỉ giáo cho. Thanh Long Trảo buồn rầu đáp: - Bọn lão phu tìm kiếm đã lâu nhưng không thành công, có lẽ phải nhờ đến Cái bang mới được. Chính Lan nhân dịp ấy dọ hỏi: - Chư vị tìm tổng đàn Bạch Liên giáo làm gì? Tại hạ mới hạ sơn nên không rõ ân oán giang hồ. Đặng lão bùi ngùi kể: - Hội chủ của bổn hội là Hồng Nhất Điểm đại hiệp, tên gọi là Âu Dương Chính Lan. Hơn năm trước, người đến Bắc Kinh tiêu diệt bọn Ngụy Trung Hiền, cứu nguy cho xã tắc. Chính Lan thọ thương trậm trọng, trên đường về bị bọn đầu sỏ Bạch Liên giáo bây giờ phục kích, bỏ mạng dưới vực sâu. Sau đó, đối phương tập kích Âu Dương gia trang, dùng chim ưng rải độc phấn, bắt sống được toàn bộ gia quyến của Chính Lan. Bọn lão phu ngày đêm tìm kiếm nơi giam giữ để cứu họ ra. Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật nhăn nhó, tiếp lời: - Đáng sợ nhất là việc Bạch Liên giáo đã dùng các con tin cưỡng bách những người thân của bọn tại hạ trở thành kẻ thù, trở kiếm chống lại anh em. Chính Lan cố nén thương tâm, hỏi thêm: - Chẳng lẽ chẳng một ai thoát khỏi trận tập kích ấy? Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều lúng túng nhìn quanh, thấy chỉ toàn những người thân thiết, liền hạ giọng: - Đại hiệp có ân lớn, bọn tại hạ chẳng dám giấu diếm, chỉ mong người giữ kín dùm cho. Quả thực có một người thoát khỏi vòng vây, nhảy xuống Trường giang tìm đến Quí gia trang. Chính Lan vui mừng khôn xiết, cố tỏ vẻ lãnh đạm: - Đã có nội gián trên đảo, việc ấy đâu còn gì bí mật nữa? Đỗ Vĩnh Huy biện bạch: - Đại hiệp lầm rồi, việc này chỉ có vài người biết thôi. Người ấy được đưa đến đây, giấu vào mật thất trước khi Bố Y hội tụ quân. Té ra trong tòa thạch thất kia có hầm ngầm. Chàng hài lòng, hờ hững hỏi: - Thế người ấy là ai? Thanh Long Trảo thì thầm: - Ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn. Nàng quen với chất độc nên không bất tỉnh ngay, kịp phá vòng vây chạy về phía bò sông. Dù bị trúng một chưởng vào lưng nhưng vẫn về đến Quí gia trang mới gục ngã. Trịnh Thiều buồn bã tiếp lời: - Tiếc rằng phu nhân cứ mãi mê man, cơ thể ngày càng hư nhược. Chính Lan biến sắc, nhưng nhờ mang mặt nạ nên không ai phát hiện. Chàng nói thật chậm để không run giọng: - Tại hạ có học qua y đạo, chữa trị được tất cả các loại chưởng thương. Nếu chư vị thấy cần, tại hạ sẽ ra tay cứu ngũ phu nhân. Bốn người nhìn nhau ái ngại, sợ câu nam nữ hữu biệt. Trân Dật bi phẫn bảo: - Chẳng lẽ vì chút tiểu tiết mà để ngũ phu nhân phải chết oan? Chính Lan là người độ lượng, chắc ở chốn suối vàng cũng hiểu cho bọn ta. Ba người tán thành, Thanh Long Trảo vội nói: - Lão phu cùng Trân lão đệ, Đỗ lão đệ ra tập họp anh em, trước là để kiểm tra thương vong, sau là để giữ bí mật việc trị thương. Trịnh đệ mau đưa Trọng đại hiệp vào thạch thất. Chấn Hạo đi theo bọn Thanh Long Trảo vì không tiện đến nơi cấm địa. Giang Tây Thần Bộ đưa Chính Lan vào trong. Nửa ngoài là khách sảnh, ngăn với phần sau bởi một bức vách dày. Chính Lan hiếu kỳ hỏi: - Đây là cơ ngơi của ai mà kiểu dáng kỳ lạ vậy? Trịnh Thiều vội đáp: - Bẩm đại hiệp, mười năm trước Bát Quái môn đặt căn cứ ở nơi đây. Tà phái này thường bắt cóc trinh nữ để hiến tế nên bị quân triều đình tiêu diệt. Tại hạ từng được tri phủ Giang Tây cử sang phối hợp với lực lượng bộ đầu An Khánh để điều tra, nhờ vậy mới biết rõ nơi đây. Trịnh Thiều móc chìa khóa mở cánh cửa thép dày, vào rồi khóa lại ngay. Khu trong bày biện như khuê phòng của nữ nhân. Có giường hoa, có bàn phấn và kệ sách. Họ Trịnh bước đến trước kệ sách, rút ra vài quyển rồi thò tay vào ấn một nút bí mật nào đấy. Chiếc giường trải nệm gấm kia tự động chạy sang một bên, để lộ nắp hầm. Xuống hết mười bậc thang, gã lại mần mò điều động cơ quan, nắp hầm sập xuống và có tiếng di chuyển về chỗ cũ của chiếc giường bên trên. Chính Lan vô cùng thán phục người đã thiết kế ra cơ quan tinh xảo này. Căn hầm có kích thước rộng như tòa nhà bên trên, trần được chống đỡ bằng cột đá xây vững chắc. Chính Lan ngước lên, nhận ra một khe hở rộng hai gang chạy suốt nóc hầm. Gió và ánh sáng lọt vào từ đây. Té ra bức tường ngăn phía trên là hai lớp song song. Ngay dưới đường thông gió ấy có một chiếc giường gỗ. Người đang nằm thiêm thiếp chính Liễu Thi Mạn. Còn cô gái ngồi cạnh giường chẳng ai khác hơn Miêu nữ Tiểu Cúc tỳ nữ của nàng. Chính Lan thắc mắc: - Cô bé kia là ai vậy? Trịnh Thiều bỗng đỏ mặt, ngượng ngùng: - Nàng ta là Tiểu Cúc, tỳ nữ của ngũ phu nhân. Đêm ấy, nàng sang Quí gia trang thăm tại hạ nên không có mặt ở nhà. Nhờ vậy, mới có người chăm sóc ngũ phu nhân. Chính Lan hiểu ngay họ Trịnh yêu thương nàng Miêu nữ kia nên lén lút hẹn hò. Tiểu Cúc thấy người lạ vào, vội đứng lên. Bụng nàng nhô cao và cũng là lý do vì sao Giang Tây Thần Bộ đỏ mặt. Nếu là lúc khác, Chính Lan đã buông lời chọc ghẹo họ Trịnh. Nhưng giờ đây chàng đang bồi hồi, lo lắng cho Thi Mạn, nên chẳng nói gì, ngồi xuống mép giường thăm mạch. Chàng cau mày bảo Tiểu Cúc: - Cô nương hãy lật sấp bệnh nhân, vén lưng áo nàng lên cho ta xem thử? Tiểu Cúc là người Miêu nên không câu nệ lễ nghi, mau mắn làm theo lời chàng. Trịnh Thiều thở dài, bỏ lên trên, phó mặc cho số phận. Chính Lan đã nhận ra lai lịch của chưởng thương. Tuyệt kỹ Tỳ Bà Am Thủ này là của Độc Giác Thần Ma tức Thái Sơn Phủ Quân Vũ Diên. Chàng suy nghĩ, cân nhắc một lúc lâu, cởi hết áo Thi Mạn ra, xoa bóp hai mươi bốn huyệt đạo trước sau. Luồng chân khí hùng hậu của chàng làm sống lại đường kinh mạch sắp khô cứng, giúp chân khí của Thi Mạn từ từ lưu chuyển. Chính Lan lại nhờ Tiểu Cúc giữ nàng ngồi lên để chàng truyền nội lực. Nửa canh giờ sau, mồ hôi Chính Lan toát ra như tắm nhưng khí huyết của bệnh nhân đã điều hoà, mặt thoáng sắc hồng. Chỉ cần tĩnh dưỡng mươi hôm, Thi Mạn sẽ hồi phục như xưa. Chính Lan bảo Tiểu Cúc: - Cúc nhi, ngươi mặc lại áo cho phu nhân đi. Còn chàng bước xuống giường ngồi cạnh vách tĩnh tọa. Khi chàng mở mắt ra thì chung quanh có năm người đang chờ đợi. Nghĩa là có thêm Sơn Đông Tử Phòng Từ Kính Nhan. Họ sụp xuống vái lạy: - Ơn cứu tử ngũ phu nhân, bọn tại hạ nguyện làm thân khuyển mã để đáp đền. Chính Lan bình thản đáp: - Chút công lao nhỏ mọn, chẳng đáng để chư vị bận tâm, xin mời đứng lên. Sơn Đông Tử Phòng nghiêm giọng: - Đại hiệp là truyền nhân của Báo Ứng Lang Quân, chắc là một lòng vì võ lâm mà càn quét tà ma. Bọn lão phu muốn tôn người là hội chủ Bố Y hội để tiêu diệt Bạch Liên giáo, mầm đại họa của võ lâm. Chính Lan mỉm cười: - Chắc các vị muốn lợi dụng ta để báo thù cho Hồng Nhất Điểm chứ gì? Từ lão không hề bối rối, gật đầu ngay: - Đại hiệp đoán không sai, nhưng thực ra hai bên cùng có lợi. Nếu đại hiệp cứu được thân quyến của Âu Dương công tử, bọn lão phu xin dâng năm vạn lượng hoàng kim còn như giết luôn được ba lão Thái Sơn Phủ Quân, Đào Hoa cung chủ, Miêu Ưng Lão Tổ sẽ được thêm hai vạn lạng vàng cho mỗi thủ cấp. Số vàng khổng lồ kia quả là vô cùng hấp dẫn, khó ai cưỡng lại được. Chính Lan đoán ngay Quí Thành Lâm là hậu thuẫn cho bọn họ. Chàng cười mát: - Còn chư vị sẽ khoanh tay chờ kết quả hay sao? Đỗ Vĩnh Huy nóng nảy đáp: - Làm gì có chuyện ấy, bọn tại hạ sẽ giao sinh mạng mình cho đại hiệp sai phái, dẫu chết cũng chẳng sờn lòng. Chính Lan gật gù: - Thế thì được, tại hạ sẽ suy nghĩ về đề nghị của chư vị. Nhưng trước tiên xin cho biết kế hoạch hành động trước đã. Từ lão vuốt râu đáp: - Hòn đảo này có vị trí rất tốt, nếu phòng thủ chu đáo hơn bọn Bạch Liên giáo khó mà vào được. Nay nội gián chưa tìm ra có dọn đi nơi khác cũng vô ích. Chờ ngũ phu nhân bình phục, chiêu mộ lại đàn độc phong đang tản mác quanh nhà cũ, nơi này càng vững chắc hơn. Thứ hai, bọn lão phu sẽ phong tỏa căn cứ, không cho ai ra cả, như vậy Bạch Liên giáo sẽ không biết rõ nội tình, tất kéo quân đến một lần nữa. Chúng ta dùng kế dĩ dật đãi lao, nắm chắc phần thắng lợi. Chính Lan im lặng tán thành và tò mò hỏi: - Vì sao các hạ lại không rời bỏ Bạch Liên giáo sớm hơn? Từ Kính Nhan thở dài: - Lão phu và bọn Hách Thiết Xuyên đâu biết rằng ngũ phu nhân còn sống và anh em Bố Y hội tụ họp nơi này, nên đành nhẫn nhục chịu sự khống chế, chờ cơ hội cứu gia quyến của Âu Dương công tử. Chính Lan vẫn còn thắc mắc: - Vì sao Bạch Liên giáo không giết hết con tin mà lại lưu lại làm gì? Võ công của bọn Lôi Đao, Thiết Xuyên đâu đáng để Bạch Liên giáo phải nhọc công lôi kéo? Sơn Đông Tử Phòng ngượng ngùng thú nhận: - Đại hiệp luận việc rất chính xác. Bạch Liên giáo giữ lại con tin để sau này uy hiếp Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Ông ta đã bất ngờ đào tẩu giữa đường và hăm dọa sẽ kéo Hỏa giáo ở Tây Vực vào Trung Nguyên. Hỏa khí của họ vô cùng lợi hại, vì vậy Thái Sơn Phủ Quân không dám đụng chạm đến con tin, và giữ kín hạ lạc tổng đàn. Chính Lan yêu thương Hỏa chân nhân, xem ông như cha mẹ ruột của mình, nên rất hân hoan. Chàng vui vẻ nói: - Nếu đúng như vậy thì giờ này Hỏa chân nhân đã sắp vào đến Trung Nguyên, chúng ta không đơn độc nữa rồi. Bỗng chàng trở nên tư lự, im lặng rất lâu và tuyên bố: - Tại hạ sẽ ở đây cho đến lúc ngũ phu nhân bình phục, sau đó sẽ trả lời dứt khoát. Cả bọn rời mật thất, trở lên mặt đất. Chính Lan và Lâm Chấn Hạo được bố trí ở ngay trong khách sảnh tức nửa ngoài của tòa nhà bát giác. Sáng mười tám tháng ba, Sơn Đông Tử Phòng đến bàn bạc với Chính Lan: - Muốn tìm ra nội gián, phải mời cho được Ma Nhãn đầu đà Nhiếp Văn Sở ở Mỹ Nhân Cốc, cạnh dòng sông Ô Giang. Lão ta có thuật nhiếp hồn rất cao cường, hỏi ai cũng lòi ra sự thật. Ngoài ra, lão còn thiện nghề độc dược, rất có ích cho chúng ta. Chính Lan có biết nhân vật tà quái ấy, chàng cười bảo: - Chưa chắc vàng ròng đã thu phục được Ma Nhãn đầu đà, ta sẽ cùng đi với Từ các hạ. Từ lão cũng có ý ấy, mừng rỡ chấp thuận ngay. Hai người lên thuyền con rời đảo, vào trấn lấy ngựa của Chính Lan và Lâm Chấn Hạo, đi về hướng đông. Trên đường đi, Từ lão kể lể: - Ma Nhãn đầu đà vốn là người dân tộc Xá, tướng mạo cổ quái, xấu xí nên mặc cảm, ít khi ra khỏi Mỹ Nhân Cốc. Chính Lan bật cười: - Lão ta như vậy sao lại đặt tên nơi ở là Mỹ Nhân Cốc? Từ Kính Nhan giải thích: - Thứ nhất trước cửa cốc có một ngôi mộ cổ bằng đá, trên bia có khắc độc một chữ Ngu. Thứ hai, dân gian vùng Ô giang có truyền tụng rằng Hạng Vũ đã đem xác Ngu Cơ Từ Chi Hạ theo mình, lúc cùng đường mới chôn nàng ở sơn cốc, và ngôi mộ cổ kia chính là của Ngu Cơ. Vì vậy, sơn cốc kia được gọi là Mỹ Nhân cốc đã hàng trăm năm nay. Khi Ma Nhãn đầu đà chọn nơi ấy làm chỗ ẩn cư thì vẫn giữ nguyên tên cũ. Trưa hôm sau, Chính Lan và Sơn Đông Tử Phòng đến Mỹ Nhân cốc. Quả nhiên, ngay mé hữu của cốc là một ngôi mộ cao hơn đầu người, chung quanh cỏ mọc đầu, kẽ đá kín rêu xanh. Lạ lùng thay, dưới gốc hàng liễu gìa có cột đàn ngựa độ bảy con. Và trong cốc vọng ra tiếng quát tháo, tiếng rên la. Hai người vội xuống ngựa, lướt vào bên trong. Trước mặt họ là bãi chiến trường khốc liệt giữa một tăng nhân tóc dài cổ đeo vòng niệm châu tay cầm thiền trượng với sáu lão già mặc Miêu phục, sử dụng Miến Đao. Đứng vòng ngoài là một bà lão người Miêu gầy như que củi. Cuộc chiến vẫn quân bình nên Chính Lan và Từ lão ẩn sau một bụi cây quan chiến. Người lão luyện giang hồ chẳng bao giờ vội vã can thiệp khi chưa thật cần thiết. Từ Kính Nhan hạ giọng: - Sáu lão già mặc Miêu phục kia chính là Nam Hoang lục tà. Không hiểu họ có oán thù gì với Ma Nhãn đầu đà mà lại đến đây? Chính Lan gật gù tán thưởng thần lực và pho trượng pháp ảo diệu của Ma Nhãn đầu đà. Bản lãnh họ Nhiếp có thể so với Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Một mình lão tả xung hữu đột giữa vòng vây của lục tà mà chẳng hề nao núng. Bỗng bà lão người Miêu mặc y phục xanh đỏ diêm dúa kia cười lên the thé: - Nhiếp Văn Sở, hai mươi năm không gặp, xem ra lão tiến bộ hơn xưa. Nhưng bổn động chủ sẽ cho lão nếm mùi bảo bối. Dứt lời, từ trong ống tay áo mụ ta bay ra hai con rết có cánh, thân dài ba gang, lưng đen bụng đỏ. Cặp rết giương đôi cánh bay vào trận, phủ sương độc xuống đầu Ma Nhãn đầu đà. Lão ta có vẻ úy kỵ chất độc kia, vung trượng cố đánh bạt đi. Sơn Đông Tử Phòng thấy cặp rết bay, nhận ra lai lịch đối phương. Lão nhăn mặt bảo: - Té ra mụ già kia là Ngô Công động chủ ở Nam Lĩnh. Mụ ta nổi danh vua độc vật ở Miêu Cương. Phen này Ma Nhãn đầu đà nguy rồi. Chính Lan từng được nghe Liễu Thi Mạn kể chuyện đất Miêu nên biết cả bảy người kia. Nam Hoang lục tà tàn ác hại người, có giết đi cũng chẳng sao. Nhưng Ngô Công động chủ Bội Liên kia lại là cháu ruột của Kim Xà phu nhân sư phụ Thi Mạn. Bà ta tính tình kiêu ngạo, lạnh lùng nhưng không có ác tính gì cả. Nếu chàng nói ra lai lịch thì Ngô Công động chủ sẽ rút lui ngay, nhưng chàng lại không dám. Giữ kín thân phận là điều kiện tiên quyết để đối phó với Bạch Liên giáo. Lúc này, Ma Nhãn đầu đà đã yếu thế, trúng một đao vào vai trái. Chính Lan không dám chần chừ, lướt nhanh vào trận. Trước tiên, chàng vung chưởng đánh văng cặp Tứ Dực Ngô Công đi. Chưởng kình nặng như búa bổ khiến đôi rết đau đớn và sợ hãi, bay về với chủ nhân. Kế đó, Chính Lan bốc thẳng lên không trung, giáng chưởng xuống đầu ba lão trong lục tà. Chiêu Hải Thượng Hàng Long chỉ gồm chín đạo chưởng phong nhưng mãnh liệt vô song. Ba lão người Miêu đâu biết chàng là ai, thản nhiên múa đao chống cự. Khi chưởng kình ập xuống như núi đổ thì mới thức ngộ ra hiểm cảnh. Nhưng đã quá muộn màng, họ gào lên, rồi gục chết. Bản lãnh hiện nay của Chính Lan còn cao cường hơn cả Hoàng Hạc Tú Sĩ và Báo Ứng Lang Quân ngày trước. Nhất là pho Cuồng Lãng Chưởng Pháp càng bội phần lợi hại. Nguyên do là vì chàng luyện Thái Âm chân khí, chưởng kình âm nhu, mềm mại, phát ra rất êm ái, khi chạm mục tiêu đối phương mới phát hiện ra nó mãnh liệt đến dường nào. Ma Nhãn đầu đà thừa cơ nhảy lùi, tròn mắt nhìn chàng trai lạ mặt. Ông không tin rằng có kẻ lại giết được tam tà chỉ trong một chiêu. Và Chính Lan đã xóa tan nghi vấn ấy bằng chiêu chưởng thứ hai. Song thủ của chàng xoáy tít, vỗ liền ba mươi sáu thức trong chiêu Quần Ngư Dược Ba, đánh thủng luồng độc phấn của ba lão còn lại. Thân ảnh chàng như mũi tên lao vút qua màn phấn trắng, giáng chưởng vào ngực đối phương. Hai chiêu giết sạch Nam Hoang lục tà, Ngô Công động chủ sợ đến nhũn cả tứ chi. Bà càng kinh hoàng khi thấy đại sát tinh trẻ tuổi kia bước về phía mình. Nhưng chàng ta lại nở nụ cười hiền hoà: - Vì sao động chủ lại theo Nam Hoang lục tà đến chốn này? Chung nương ngỡ ngàng đáp: - Lão thân có một người sư muội bị Bạch Liên giáo bắt giam. Lục Tà bảo rằng họ biết vị trí tổng đàn, và nếu lão thân giúp họ giết được Ma Nhãn đầu đà, thì lục tà sẽ hợp lực cùng lão thân đến đấy cứu Liễu nha đầu. Chính Lan không ngờ bà ta lại nặng tình với Liễu Thi Mạn như vậy. Chàng cảm động nói: - Động chủ muốn Thi Mạn thì xin đi theo tại hạ. Ngô Công động chủ hân hoan gật đầu. Lúc này, Ma Nhãn đầu đà đã được Từ lão băng bó xong. Lão bước đến lạnh lùng nói: - Lão phu chẳng phải kẻ vô ơn, nhưng không thích người ngoài xen vào chuyện của mình. Các hạ đến đây chắc có dụng ý? Tính lão cổ quái đến mức này thì quả là hiếm có. Sơn Đông Tử Phòng bối rối trình bày ý định của mình. Nào ngờ Đầu Đà cười nhạt: - Lão phu đã chán sống và không muốn dính vào ân oán giang hồ. Nếu nhị vị muốn đòi lại mạng này, lão phu sẵn sàng tự sát cho sạch nợ. Từ Kính Nhan chết điếng người, chẳng biết phải đối phó thế nào với lão quái vật này. Đến Ngô Công động chủ còn phải than trời: - Thực ta chưa thấy trên đời có ai lại cổ quái hơn lão. Vậy mà Chính Lan lại thản nhiên ngâm nga: “Nhân nhàn quế hoa lạc Dạ tĩnh xuân sơn không Nguyệt xuất minh sơn điểu Thời minh xuân giản trung.”(15) Ma Nhãn đầu đà biến sắc hỏi ngay: - Các hạ ngâm bài Điểu Minh Giản(16)này có ý gì? Chính Lan ung dung đáp: - Bốn năm trước, tại hạ đi ngang cánh rừng ở chân núi Thái Bạch. Tình cờ có cứu được một gã tiều phu thoát khỏi nanh vuốt mãnh hổ. Gã liền mời tại hạ về nhà chơi, say sưa suốt ba ngày. Gã thường ngâm nga bài thơ ấy nên tại hạ thuộc lòng. Cả hai đứa con trai nhỏ bé của gã cũng thuộc, chúng rất kháu khỉnh và thông tuệ. Gã tiều phu ấy kể rằng vì tình yêu đối với người vợ hiện tại mà bị thân phụ đuổi đi. Lòng lúc nào cũng nhung nhớ cố hương mà chẳng dám về. Ma Nhãn đầu đà như người bị chùy sắt nện vào, lảo đảo ôm ngực. Lão run rẩy hỏi: - Các hạ có gặp vợ của hắn không? Chính Lan nghiêm giọng: - Có chứ, nàng ta quả là một hiền phụ hiếm có, đối với trượng phu một lòng kính cẩn và yêu thương. Dù cảnh nhà có nghèo khó vẫn luôn cười, cần mẫn chăm sóc con thơ. Ma Nhãn đầu đà sa lệ lẩm bẩm: - Tội nghiệp Vân nhi, té ra ta mới là kẻ hồ đồ. Lão quì xuống vái tạ: - Ơn cứu mạng khuyển tử, lão phu xin đê đầu bái tạ. Mong công tử chỉ chỗ để lão phu đi rước con cháu về. Chính Lan mỉm cười: - Tôn giá cứ viết thư, tại hạ hứa trong vòng ba tháng sẽ đưa được gia đình Nhiếp Tường Vân về đây. Trước mắt, mong tôn giá đến Vu Hồ giúp Bố Y hội tìm ra nội gián. Việc này rất cấp bách, mong tôn giá giúp cho. Ma Nhãn đầu đà khẳng khái nói: - Lão phu xin tuân mệnh. Và lão ngượng nghịu cười: - Thực ra thì lão phu cũng rất xấu hổ khi đến đấy. Công tử rước dùm là thượng sách. Lão đã nói thực lòng mình, vì mười năm trước, con trai lão là Nhiếp Tường Vân đã chuộc một kỹ nữ về làm vợ. Đầu đà nổi lôi đình đuổi cả hai đi. Sau đó, lão sống trong niềm ray rứt khôn nguôi, tính tình trở nên quái dị. Nay nghe nói nàng kỹ nữ kia rất hiền thục và sanh cho lão hai đứa cháu trai, đầu đà mừng như sống lại. Nhưng bảo lão đến tận nơi rước về thì biết ăn nói làm sao đây? Ma Nhãn đầu đà vác sáu tử thi quăng xuống Ô giang, giao sơn cốc lại cho lão bộc già, thu xếp hành lý đi theo Chính Lan. Tất nhiên Ngô Công động chủ cũng tháp tùng. Chiều hôm sau, bốn người về đến Vu Hồ. Ngay đêm ấy, Ma Nhãn đầu đà thi triển Nhiếp Hồn đại pháp, tra hỏi từng người. Khi đến lượt Kim Hoàn Đao Trương Lân thì gã cắn lưỡi tự sát. Không còn ai khác, mọi người yên tâm, hết lời tán dương đầu đà. Nhiếp lão đã giải tỏa được nỗi niềm riêng nên rất vui vẻ, hòa đồng, không khó chịu như trước nữa. Nhưng Chính Lan vẫn khăng khăng giữ kín bí mật sống còn của mình, tiếp tục đóng vai Báo Ứng Lang Quân đệ nhị đại. Hai ngày sau, Tiểu Cúc lên báo rằng Thi Mạn đã hồi tỉnh, bắt đầu ăn uống đều đặn. Sơn Đông Tử Phòng dắt Ngô Công động chủ xuống mật thất thăm nàng. Chính Lan thản nhiên đi theo. Chung nương vừa thấy Thi Mạn đã chạy đến ôm và khóc lóc: - Tội nghiệp sư muội, mới đôi mươi mà đã góa chồng, lại còn bệnh hoạn suýt chết thế này. Bà liến thoắng kể lại cho nàng nghe câu chuyện ở Mỹ Nhân cốc. Thi Mạn cũng không ngờ vị sư tỷ khô khan này lại là người đầy tình nghĩa như vậy. Trịnh Thiều giới thiệu Chính Lan với nàng: - Bẩm phu nhân, đây chính là Trọng đại hiệp, người đã chữa trị vết chưởng thương cho phu nhân. Khi tỉnh lại, nàng đã được tỳ nữ Tiểu Cúc kể lại cho nghe. Giờ thấy mặt ân nhân, lòng càng thêm hổ thẹn. Chàng trai anh tuấn, tài ba kia đã đụng chạm đến thân thể nàng. Nhưng do bản chất sơn dã, phóng khoáng, nàng không đặt nặng vấn đề nam nữ hữu biệt, nhanh chóng xua tan nỗi băn khoăn trong lòng. Thi Mạn vòng tay nói: - Tiểu muội cảm ơn đại hiệp đã cứu mạng. Chính Lan nhìn gương mặt gày gò, hốc hác, lòng yêu thương bừng cháy. Chỉ muốn bước đến ôm nàng vào lòng. Nhưng hoàn cảnh không cho phép, chàng đành gượng cười, nói vài câu khách sáo: - Phu nhân chớ có bận tâm vì việc ấy. Tương trợ đồng đạo là nghĩa vụ của người hiệp khách. Thi Mạn buồn bã bảo: - Khẩu khí của đại hiệp chẳng khác gì tiên phu lúc còn sinh thời. Chính Lan giật mình, tự nhủ sẽ cẩn trọng hơn. Những ngày sau đó, Bố Y hội rộn ràng dốc sức xây dựng lại căn cứ và tuyến phòng thủ. Ngô Công động chủ đến khu rừng quanh Âu Dương gia trang, chiêu mộ đàn độc phong của Thi Mạn đưa về Vu Hồ. Bà và Ma Nhãn đầu đà trở thành hộ pháp của Bố Y hội. Đầu tháng tư, Thi Mạn đã hoàn toàn bình phục, Chính Lan lặng lẽ rời Vu Hồ, không nói một lời từ biệt. Lâm Chấn Hạo bị bỏ lại, vui vẻ tham gia Bố Y hội.
Âu Dương Chính Lan Tác Giả:Ưu Đàm Hoa -- o -- Hồi 11 Tam ngốc thuỳ chi tam nghĩa sĩ Đào hoa vĩnh bất kiến đông phong Nguồn:vnthuquan Mời đọc Chàng đi rồi, các cao thủ đầu não họp lại bàn bạc. Sơn Đông Tử Phòng vò đầu bứt tóc nói: - Tính cách của Trọng Phú Lan quả là khó hiểu, gã nghèo kiết xác mà vẫn dửng dưng trước số vàng khổng lồ chúng ta đã đề nghị. Mất gã còn ai để đối phó với bọn ma đầu Bạch Liên giáo. Thanh Long Trảo tiếp lời: - Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy đã đi núi Thái Bạch rước gia đình Nhiếp Tường Vân, đồng thời đón cả Hỏa chân nhân. Trước mắt, chúng ta cứ tôn ngũ phu nhân làm hội chủ, cố thủ nơi này, chờ Tây Môn lão gia đến rồi sẽ tính. Lâm Chấn Hạo có ơn với Bố Y hội nên được giao chức đường chủ, có mặt trong cuộc họp. Gã rụt rè nói: - Hôm kia Trọng huynh có hỏi mượn tại hạ ba trăm lượng bạc, nói là để mua sắm y phục, nào ngờ y lại bỏ đi. Từ lão nóng ruột hỏi ngay: - Thế Trọng đại hiệp cón nói gì nữa không? Họ Lâm bỗng đỏ mặt, ấp a ấp úng: - Trọng huynh còn cười và nói đùa rằng: “Nếu ta không trả nổi, Lâm lão đệ cứ đòi ngũ phu nhân.” Thi Mạn mỉm cười: - Không sao, tiểu muội thọ đại ân của Trọng đại hiệp, dẫu ngàn vàng cũng sắn sàng hoàn lại cho Lâm huynh. Sau đó, Bố Y hội kiện toàn tổ chức, ráo riết huấn luyện thủ hạ. Một hôm, Thi Mạn đi đến khoảng sân rộng phía đông của đảo xem anh em Bố Y hội luyện võ. Lúc này Lâm Chấn Hạo đang tỉ thí với Trịnh Thiều. Công lực họ Lâm tuy kém hơn nhưng kiếm pháp kín đáo, thân pháp biến ảo, linh diệu nên cầm đồng với Trịnh Thiều. Thi Mạn sững sờ nhận ra họ Lâm đang thi triển bộ pháp trong Hoàng Hạc Khinh Vân của Chính Lan. Nàng chăm chú quan sát và tin rằng mình không thể lầm lẫn, vì bản thân Thi Mạn cũng biết tuyệt kỹ này. Chờ hai người ôn luyện xong, Thi Mạn cho mời họ Lâm vào tòa thạch thất hỏi chuyện. Chỉ có sư tỷ nàng là Ngô Công động chủ tham dự. Chấn Hạo rụt rè hỏi: - Chẳng hay hội chủ có điều gì chỉ giáo? Thi Mạn dịu giọng: - Xin Lâm đường chủ cho bổn nhân biết đã học pho thân pháp kia của ai? Chấn Hạo thở phào, vui vẻ đáp: - Chính Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan đã dạy cho thuộc hạ, y còn bổ khuyết cho pho Hoa Sơn kiếm pháp, nhờ vậy tại hạ mới địch lại Trịnh Thần Bộ. - Thế Lâm đường chủ gặp Trọng Phú Lan ở đâu? - Bẩm hội chủ, ở bờ bắc sông Hoài. Dường như y đi từ hướng bắc xuống, và chẳng hề có hành lý gì cả. Thi Mạn cho gã lui ra và gọi Miêu nữ Tiểu Cúc vào. Nàng nghiêm giọng bảo: - Cúc nhi, em hãy kể lại chi tiết việc Trọng đại hiệp trị thương cho ta. Y đã chạm vào những chỗ nào trên cơ thể và sắc diện lúc ấy ra sao? Thực ra, Trịnh Thiều đã bảo Tiểu Cúc giấu giếm bớt sự thực, để Thi Mạn đỡ hổ thẹn. Tiểu Cúc xoa chiếc bụng tròn trĩnh của mình, uể oải vặn lưng rồi mỉm cười: - Nô tỳ thấy y tự nhiên chẳng khác gì các thầy mo của người Miêu chúng ta. Y đụng chạm, xoa bóp toàn thân chẳng có chút ngượng ngùng. Nhưng tiểu muội có cảm giác rằng y không hề nổi tà tâm, động tác y dịu dàng, như sợ làm phu nhân bị đau vậy. Thi Mạn chấn động, lặng người nhớ lại phong thái cử chỉ của Báo Ứng Lang Quân. Ánh mắt của gã nhìn nàng lúc nào cũng trìu mến và dạt dào yêu thương. Thi Mạn đang đau khổ, thương nhớ Chính Lan nên không hề để ý đến gã, nay hồi tưởng lại, Thi Mạn rùng mình nhận ra họ Trọng có nhiều điểm giống Chính Lan. Nhưng tiếng tăm của Vô Để Uyển lừng lẫy đã lâu, chưa ai xuống được mà toàn mạng trở lên, huống hồ Chính Lan đang thọ trọng thương, làm sao sống nổi? Nỗi phân vân khiến Thi Mạn đau lòng vô hạn, dòng châu tuôn lã chã. Nhưng chính Ngô Công động chủ đã là người gỡ rối cho nàng, bà hỏi Tiểu Cúc: - Cúc nhi, lúc họ Trọng chữa thương cho Liễu sư muội thì Hồng Quan Kim Xà đang ở đâu, và thái độ của nó thế nào? Tiểu Cúc gãi đầu cố nhớ lại, ngơ ngác đáp: - Đúng là có chuyện lạ, lúc ấy xà nhi quấn quanh thanh gỗ giăng mùng ở góc giường bên ngoài, gần đầu của phu nhân. Vậy mà Trọng Phú Lan chẳng hề sợ hãi, ngồi ngay xuống mép giường chuẩn mạch, và xà nhi nằm im thin thít. Nô tỳ vì quá mệt mỏi nên không chú ý đến hiện tượng ấy. Chu nương phân vân bảo: - Liễu sư muội, chẳng lẽ Chính Lan còn sống? Thi Mạn cũng mong như vậy, ôm lấy Ngô Công động chủ khóc ròng. Khi quá mừng rỡ, nữ nhân cũng khóc nhiều như lúc thương tâm. Dù chưa chắc chắn lắm nhưng Thi Mạn cũng quyết tâm đi tìm Trọng Phú Lan để kiểm chứng. Hai người bàn bạc một hồi, chạy đến phòng của Chính Lan tìm kiếm. May thay chàng còn để lại đôi giầy rách. Cặp Tứ Dực Ngô Công là kỳ vật của đất Miêu Cương, ngoài độc tính vô song còn có tài đánh hơi rất tuyệt diệu. Thi Mạn cho mời Sơn Đông Tử Phòng đến, nói cho lão biết phát hiện của mình. Từ lão hoan hỉ phi thường, bật cười khanh khách: - Lão phu cũng đã bắt đầu nghi ngờ Báo Ứng Lang Quân là Chính Lan. Chiếc răng cửa hàm dưới của gã mẻ một miếng, chẳng khác gì Hồng Nhất Điểm. Khi Ma Nhãn đầu đà bảo rằng Báo Ứng Lang Quân mang mặt nạ, lão phu càng khẳng định thêm. Thi Mạn giao sự vụ Bố Y hội cho lão rồi cùng Ngô Công động chủ rời đảo. Ngoài Từ lão và Tiểu Cúc ra, chẳng ai biết họ đi đâu. ° ° ° Nhắc lại, Chính Lan thấy Thi Mạn đã bình phục, quyết định lên đường đến Lạc Dương, nhờ Đại Đầu Cái, bang chủ Cái bang, giúp đỡ trong việc tìm kiếm nơi giam giữ con tin. Thứ hai, chàng sẽ dùng thân phận Báo Ứng Lang Quân chém giết bọn giáo đồ Bạch Liên giáo, dụ cho Thái Sơn Phủ Quân, Đào Hoa cung chủ và Miêu Ưng Lão phải xuất hiện. Bỗng chàng nhớ đên Đào Hoa cung, tự hỏi lẽ nào một nơi có địa thế hiểm yếu, và cơ ngơi đồ sộ như vậy, lại không được chọn làm tổng đàn Bạch Liên giáo? Chàng quyết định đi Thái An một chuyến để dọ thám xem sao. Nếu không có kết quả, sẽ đến Lạc Dương. Mười ngày sau, Chính Lan có mặt ở Từ Châu. Chàng dùng cơm trưa xong, lên đường tìm đến Đào Hoa cung. Trước đó, chàng đã mua một thanh trường kiếm với giá ba chục lượng. Chàng không thể sử dụng tiểu kiếm vì sợ lộ thân thế. Cuộc chiến trước mắt rất nguy hiểm, phải có vũ khí mới phát huy hết được sở học. Cuối giờ mùi, Chính Lan đã rời xa thành Từ Châu được bốn chục dặm. Trước mặt là một cánh rừng rậm râm mát, chàng thúc ngựa phi mau, định nghỉ chân một lúc, và để tuấn mã gặm ít cỏ xanh. Đến nơi, Chính Lan xuống ngựa, ngồi dựa gốc cây, mặc cho con ngựa nhấm nháp trên bãi cỏ ven rừng. Chợt từ hướng bắc có tiếng chân chạy thình thịch và tiếng vó ngựa khua vang. Chàng ngước lên, nhìn thấy ba bóng người áo xanh chạy đến. Theo sau họ là đoàn kỵ sĩ, cũng áo xanh. Đóa sen trên ngực tố cáo họ đều là thủ hạ Bạch Liên giáo nhưng không hiểu sao lại truy sát ba người chạy bộ? Khi ba gã đến gần, chàng mới biết họ là Hán Trung Tam Ngốc. Vì đầu chúng chít khăn nên chàng khó nhận ra. Ba gã ngốc đều mang thương tích, thở hổn hển như trâu rống, rẽ vào chỗ Chính Lan đang ngồi. Mục tiêu của họ là túi da đựng nước trên tay chàng. Nhị ngốc Hồ Giả vung đao hăm dọa: - Mau đưa túi nước cho bọn lão gia. Chính Lan mỉm cười, ném cho gã. Hồ Giả uống một ngụm, đưa cho đại ngốc rồi nói oang oang: - Uống đi rồi đánh một trận cuối cùng, có chạy cũng chẳng thoát được đâu. Lúc ba gã uống sạch túi nước thì đoàn nhân mã kia tràn đến. Tổng cộng khoảng hai mươi tên và dẫn đầu bởi một cặp nam nữ áo xanh, thắt lưng vàng. Đám còn lại đều mang thắt lưng đen như bọn tam ngốc, suy ra vai vế hai người ấy cao hơn. Chính Lan ngỡ ngàng nhận ra gã đại hán vạm vỡ ấy là Lôi Đao Hứa Hoa. Chàng không hiểu chuyện gì xảy ra, lặng lẽ chờ xem diễn biến. Hứa Hoa và đám giáo đồ Bạch Liên giáo xuống ngựa vây chặt lấy Hán Trung Tam Ngốc, vô tình vây cả Chính Lan vào giữa. Tam ngốc Hồ Phùng Tường ngoác miệng chửi liền: - Hứa Hoa, ngươi đúng là đồ súc sinh mạt hạng. Đại ca vừa mới chết chẳng bao lâu, ngươi đã vì nữ sắc, quyền lực mà phản bội anh em. Bọn ta tuy vô học, ngốc nghếch nhưng có chết đi cũng chẳng xấu hổ khi gặp đại ca dưới chốn suối vàng. Chính Lan nghe lòng đau nhói, quan sát dung mạo Lôi Đao. Gã mập hơn trước, nhưng mặt xanh, mắt thâm quầng, có lẽ nữ nhân lẳng lơ, khêu gợi đứng cạnh gã chính là nguyên nhân. Hứa Hoa bị chửi quá nặng, giận tím mặt nói: - Mỗi người một chí hướng, làm sao trách ta được? Nay Bạch Liên giáo hùng mạnh nhất võ lâm, lại giam giữ vợ con Chính Lan ở đâu không rõ, chẳng lẽ ta cứ phải ngậm đắng nuốt cay đóng vai hàng thần lơ láo mãi sao? Chính Lan có đến sáu vợ, Hứa mỗ tìm cho mình một người ưng ý chẳng lẽ lại không được? Đại ngốc khôn ngoan hơn nên đấu dịu: - Ngươi nói vậy cũng phải, mỗi người một chí hướng, chẳng thể ép được. Vậy ngươi hãy tha cho bọn ta về quê cũ có được chăng? Lôi Đao cười nhạt: - Bọn ngươi làm gì có quê hương mà về. Ta biết rõ các ngươi định đến núi Cửu Hoa, gia nhập Hồng Điểm hội để chống lại Bạch Liên giáo. Chính Lan không ngờ lại có một bang hội như vậy. Nữ nhân kia tiếp lời họ Hứa: - Các ngươi bỏ đi không sợ giáo chủ hạ sát vợ con Chính Lan hay sao? Nhị ngốc cười hì hì: - Này cái con mụ mông to kia, ngươi đừng hòng hù dọa bọn lão gia vô ích. Sơn Đông Tử Phòng đã cho bọn ta biết rằng Bạch Liên giáo chẳng bao giờ dám đụng đến con tin. Hỏa chân nhân cùng các cao thủ Hỏa giáo sắp vào đến Trung Nguyên rồi. Mụ và gã khốn kiếp kia cũng không thoát chết đâu. Nữ nhân giận dữ quát: - Giết bọn chúng cho ta. Mười tám tên áo xanh theo ả xông vào, Lôi Đao cũng chẳng hề ngập ngừng, dở pho đao pháp lừng danh tấn công đại ngốc. Chính Lan nhận ra gã chẳng hề nương tay, chàng vừa phẫn hận vừa chua chát khôn cùng. Ba gã ngốc đã thọ thương từ trước nên lâm ngay vào thế hạ phong. Nhưng chúng vẫn liều mạng chiến đấu rất kiên cường. Chính Lan thấy đại ngốc bị bảo đao của Hứa Hoa rạch thêm một đường nơi bắp tay tả, chàng giận dữ gầm vang, lướt đến trận địa. Chưởng kình lớp lớp theo nhau giáng vào màn đao quang, đánh bật thanh đao khỏi tay Hứa Hoa và vỗ vào ngực gã. Lôi Đao hự lên, văng ngược ra sau, lăn lông lốc trên mặt cỏ, mê man bất tỉnh. Chiêu Nguyệt Anh Thu Phong này, Chính Lan chỉ dùng có năm thành công lực nên họ Hứa không chết. Nhưng chiêu thứ hai lại nặng nề gấp đôi, đánh gãy xương vai, xương lồng ngực của ả lẳng lơ kia, rồi chàng hạ thân xuống lao vào hàng ngũ bọn giáo đồ, thi triển phần thượng của pho Cuồng Lãng Chưởng Pháp. Pho tuyệt chưởng này có đến tám mươi mốt chiêu, gồm chín chiêu phách không chưởng và bảy mươi hai chiêu phối hợp, gồm đủ quyền, cước, chưởng, trảo. Tuy là phần thượng, dành cho người công lực yếu kém, chưa đủ sức phát ra phách không chưởng, nhưng cũng vô cùng biến ảo, lợi hại. Nhất là đối với kẻ có đến hơn hoa giáp công lực như Chính Lan. Thủ cước chàng liên tiếp đưa ra hàng loạt đòn, nối nhau như sóng Trường giang. Với phép khoái chưởng tuyệt luân này, bọn giáo đồ Bạch Liên giáo làm sao địch nổi? Chúng bỏ chạy thì bị Hán Trung Tam Ngốc chặn lại. Cuối cùng, chẳng còn một ai sống sót cả. Chính Lan dừng tay, nhìn về phía Lôi Đao, phát hiện nhị ngốc đang định chặt đầu Lôi Đao. Chính Lan quát vang: - Dừng tay, không cần phải giết gã. Chút tình nghĩa ngày xưa khiến chàng đau đớn, không muốn Lôi Đao chết. Nhị ngốc bực bội hỏi lại: - Kẻ đã táng tận lương tâm, lừa thầy phản bạn như vậy làm sao tha được? Chính Lan tần ngần nhớ đến câu “quân tử cố cùng.” Lôi Đao là người thiếu ý chí, không giữ được đạo nghĩa khi lâm vào cảnh khốn cùng. Vậy mà ba gã ngốc kia vẫn một lòng một dạ chung thủy với người đã chết. Phải chăng Khổng Phu Tử hoàn toàn đúng khi bảo rằng kẻ khờ dại, mộc mạc gần với đức nhân hơn? Chàng quắc mắt bảo: - Ta bảo tha là tha. Anh mắt uy nghiêm của chàng khiến nhị ngốc sợ hãi, không dám cãi lệnh. Ba gã định quì xuống vái tạ. Chính Lan xua tay hỏi ngay: - Phải chăng ba vị vừa đào thoát khỏi Đào Hoa cung? Đại Ngốc đáp: - Bẩm đại hiệp phải. Chính Lan hỏi thêm: - Vậy ba vị có dám đoán chắc rằng Đào Hoa cung không phải là nơi giam giữ tù nhân? Nhị ngốc quả quyết: - Bẩm đúng vậy, anh em tại hạ được tự do đi lại nên đã dò xét khắp cung, hoàn toàn không thấy một nhà lao nào cả. Chính Lan biết gã nói đúng. Nếu không Bạch Liên giáo đâu dại gì để tam ngốc ở đấy. Chàng bảo chúng: - Mua cướp lấy ba con tuấn mã rồi rời nơi này mau. Ba gã vâng dạ nhưng lại chạy đến lục soát lưng áo các tử thi, gom góp vàng bạc. Chính Lan mỉm cười thông cảm, chàng đã trải qua cảnh thiếu thốn nên hiểu rằng tiền bạc rất cần khi dong ruổi ngàn dặm. Tất nhiên là cả tam ngốc và Lôi Đao đều không mang bọc hành lý. Nhị ngốc bèn bỏ tất cả vào tay nải của Chính Lan. Gã cười hề hề: - Số ngân lượng này xem như để bồi thường tiền thuốc men cho anh em tại hạ. Đại ngốc biết điều hơn, đỡ lời em mình: - Dĩ nhiên đại hiệp cũng có phần. Chính Lan phì cười: - Nhanh chân lên, đừng cà kê nữa. Bốn con ngựa phi nước đại về hướng đông. Được vài chục dặm thì trời tối, may mà vừa lúc đến một tiểu trấn. Chỉ nửa canh giờ sau, ba gã ngốc đã tắm rửa, băng bó xong, và còn kịp ra ngoài mua sắm vài bộ y phục. Bốn người quây quần quanh mâm cơm trong một quán trọ, đại ngốc lễ phép hỏi: - Xin ân công cho biết tính danh? Chính Lan nghiêm giọng: - Ta là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan. Ba gã này dốt đặc nên chẳng thể nào biết đến thanh danh một người đã chết bảy chục năm. Nhị ngốc bỗng bùi ngùi nói: - Bọn tại hạ cũng có một vị đại ca tên Lan như ân công, tiếc rằng người đã chết được hơn một năm rồi. Chính Lan cảm động, ngắt lời gã: - Hồng Điểm hội là tổ chức nào vậy? Đại Ngốc cất tiếng: - Trong khoảng một tháng nay, giang hồ truyền tụng về Hồng Điểm hội ở Cửu Hoa sơn. Nghe nói họ là những hào kiệt trẻ tuổi, từng tôn xưng Hồng Nhất Điểm Âu Dương Chính Lan làm thần tượng, nay thấy đại ca của bọn tại hạ chết thảm, thân quyến mười mấy người lại bị Bạch Liên giáo bắt giam, họ phẫn nộ, đồng lòng chung sức để đòi lại công đạo cho Hồng Nhất Điểm. Họ chưa có hội chủ, nên định ngày đầu tháng năm sẽ mở đại hội để cử người tài đức. Tam ngốc Hồ Phùng Tường đắc ý cướp lời: - Bọn ta là nghĩa đệ của Hồng Nhất Điểm, lại nổi danh hiệp khách từ lâu. Phen này chắc chắn sẽ chiếm được ngôi hội chủ. Chính Lan cười khẩy: - Võ nghệ tam vị có địch lại bọn đầu sỏ Bạch Liên giáo hay không mà dám mơ tưởng đến chức hội chủ? Ba gã ngốc bẽn lẽn cúi đầu. Nhị ngốc lẩm bẩm: - Nếu anh em tại hạ không xứng đáng thì trong đám thiếu niên kia cũng chẳng có ai hơn được. Lần này thì tam ngốc tỏ ra thông minh hơn. Gã nhìn Chính Lan nở nụ cười cầu tài: - Hay là ân công lên làm hội chủ Hồng Điểm hội, với bản lĩnh của người thì đâu sợ gì bọn Thái Sơn Phủ Quân? Hai gã kia cực lực tán thành, Chính Lan cười mát: - Có một người vừa nói tên ra đã trở thành hội chủ ngay, chẳng cần phải so tài, đọ sức. Đó là ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn. Ba gã ngốc ủa thật lớn, lắp bắp nói: - Té ra ngũ đại tẩu không bị bắt sao? Chính Lan gật đầu: - Đúng vậy. Hiện giờ nàng ta đang ở Vu Hồ với Sơn Đông Tử Phòng, Thanh Long Trảo, Thiên Thủ Thư Sinh và hai trăm anh em Bố Y hội. Đại ngốc mừng rỡ nói: - Thế thì bọn tại hạ sẽ đi ngay Vu Hồ, không đến với Hồng Điểm hội nữa. Chính Lan bác ngay: - Không được, ba vị bắt buộc phải tham gia Hồng Điểm hội, dù có được bầu làm hội chủ hay không. Sau đó sẽ đưa Hồng Điểm hội phối hợp cùng Bố Y hội mà đối phó với Bạch Liên giáo. Chàng kể lại mọi việc ở Vu Hồ, dặn dò kỹ lưỡng ba gã ngốc về kế hoạch hành động. Hán Trung Tam Ngốc bỗng có cảm giác như đang được đại ca Chính Lan chỉ bảo, bất giác nhất nhất tuân theo. Mười một ngày sau, bọn Chính Lan đến trấn Lăng Dương gần chân núi Cửu Hoa. Sáng mai đã là ngày khai mạc đại hội của Hồng Điểm hội. Nơi đây, đang diễn ra một hiện tượng kỳ lạ nhất lịch sử võ lâm. Hàng ngàn chàng trai tuổi trên dưới ba mươi áo học trò vải thô, mũ thư sinh đen, vai mang kiếm tràn ngập khắp nơi. Có nhiều người giống Âu Dương Chính Lan đến nỗi ba gã ngốc phải sa lệ vì thương nhớ đại ca. Tuy nhiên, họ đều rất ít khi nở nụ cười, ấnh mắt long lanh thù hận, mặt lạnh như tiền. Chính Lan vô cùng cảm động nhưng lại càng bội phần lo lắng. Họ có lòng nhiệt huyết nhưng thiếu bản lĩnh và kinh nghiệm để đối phó với tà ma. Không chừng, chính người của Bạch Liên giáo sẽ trà trộn vào và trở thành hội chủ. Không có Sơn Đông Tử Phòng ở đây, chàng đành phải dựa vào Hán Trung Tam Ngốc để cứu vãn tình hình. Người quá đông nên bọn chàng không tìm được chỗ trọ. Chính Lan suy nghĩ rồi bảo: - Chúng ta cứ lên thẳng núi Cửu Hoa mà nghỉ ngơi. Nhân tiện tìm hiểu xem ai là người đã triệu tập đại hội này. Nhị Ngốc khen phải: - Đúng thế, bọn tại hạ thừa danh nghĩa để tham gia ban tổ chức. Ánh tà dương mùa hạ đỏ rực trải vàng trên chín ngọn núi, khiến Cửu Hoa sơn càng thêm diễm lệ. Chính Lan hỏi thăm đường, ngạc nhiên khi thấy căn cứ của Hồng Điểm hội nằm ngay trên nền cũ của tòa đạo am nơi Cửu Hoa Bà Bà từng ẩn dật. Bốn người gởi ngựa nhà tiều phu, phi thân lên núi. Khoảng rừng trúc trên bình đài giờ đây đã bị chặt sạch, và những thân trúc ấy đã biến thành mấy chục căn tiểu xá vây quanh một khoảng đất rộng ở giữa có lôi đài bằng tre. Cuối đường sơn đạo có bốn hán tử đứng gác. Họ hòa nhã vòng tay chào và hỏi: - Sáng mai đại hội mới khai mạc, chư vị lên núi làm gì? Nhị ngốc vênh mặt đáp: - Bọn tại hạ là Hán Trung Tam Hiệp, nghĩa đệ của Hồng Nhất Điểm, muốn tham gia việc tổ chức đại hội. Gã chột mắt cười khẩy: - Tam vị bấy lâu phục vụ cho Bạch Liên giáo, còn tư cách gì mà xưng là em của Âu Dương công tử? Đại ngốc giận dữ nói: - Bọn chúng đem sinh mạng thê tử của đại ca bọn ta ra làm áp lực. Là phận em, Hán Trung Tam Hiệp đành phải nhẫn nhục, có thế mà ngươi cũng không hiểu sao? Chính Lan không muốn dài dòng lôi thôi, truyền âm chỉ bảo cho đại ngốc, gã hiểu ý nghiêm giọng: - Nay anh em ta đã điều tra ra hạ lạc thân quyến của đại ca. Bọn ngươi không mau đưa vào yết kiến những nhân vật chủ chốt, thì đừng trách sao Hán Trung Tam Hiệp tàn nhẫn? Gã cao gầy biến sắc, dịu giọng: - Vậy để tại hạ chạy vào trong bẩm báo. Gã rảo bước về phía căn trúc xá trong cùng. Lát sau trở ra, kính cẩn mời khách vào. Căn trúc xá này tuy thoạt nhìn có vẻ cũng giống như những căn khác, nhưng vào rồi mới biết nó sâu gấp đôi. Gian ngoài là khách sảnh rộng rãi, được ngăn bởi một tấm rèm làm bằng những đoạn trúc ngắn xâu với nhau. Ngoài này đèn nến sáng rực nhưng sau rèm hoàn toàn tăm tối. Hán tử cao gầy mời bọn Chính Lan ngồi xuống quanh chiếc bàn gỗ mộc, rồi cung kính vòng tay, hướng vào bức rèm trúc thưa rằng: - Bẩm ngũ vị lão gia, khách đã đến. Như vậy, bộ phận đầu não có đến năm người. Hán tử lui ra ngoài, và từ sau bức rèm có tiếng người già nua vọng ra: - Chư vị bảo rằng biết được hạ lạc thân quyến của Hồng Nhất Điểm đại hiệp xin cứ trình bày cho bọn lão phu nghe thử. Chính Lan vội truyền âm chỉ dẫn. Nhị ngốc liền cười nhạt: - Tin này cực kỳ quan trọng, đâu thể dễ dàng tiết lộ cho những người không rõ lai lịch. Biết đâu chư vị là người của Bạch Liên giáo thì sao? Người kia bật cười quái dị: - Còn lão phu thì lại nghi ngờ bọn ngươi vâng lệnh Thái Sơn Phủ Quân đến đây dò xét. Đại ngốc bỗng cười vang: - Thôi đi lão Đại Đầu Cái kia, đừng giả ma giả quỉ nữa, đến lòng trung nghĩa của Hán Trung Tam Hiệp mà còn nghi ngờ thì làm sao tổ chức được Hồng Điểm hội? Người kia gằn giọng: - Giỏi cho ba gã ngốc, làm sao bọn ngươi lại nhận ra lão hóa tử ta? Nếu không nói rõ thì đừng hòng thoát khỏi chốn này. Đại ngốc ung dung nói: - Chỉ cần quan sát bọn gác cửa là nhận ra ngay thôi. Tên thì chột, tên thì cà nhắc, tên thì mất mấy ngón tay, tên thì ngễnh ngãng. Hơn nữa, cách chúng cúi đầu chào đúng là của đám ăn mày. Đại Đầu Cái lặng yên một lúc, cười khà khà: - Lão phu không tin bọn ngốc tử này lại đột nhiên trở nên thông minh mẫn tiệp như thế, phải chăng chàng thiếu hiệp kia đã mớm lời cho các ngươi. Hắn là ai vậy? Chính Lan mỉm cười đáp ngay: - Tại hạ là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan. Xin chư vị chưởng môn đừng nghi ngại, ra đây cùng nhau đàm đạo. Dường như Đại Đầu Cái rúng động vì câu nói, lão run giọng hỏi: - Chẳng lẽ nhãn lực của các hạ lại nhìn thấu cả bóng tối. Chính Lan lắc đầu: - Không rõ lắm, nhưng dựa vào chiếc đầu trọc và ba búi tóc đạo sĩ cũng có thể đoán ra ai đủ tư cách ngồi ngang hàng với bang chủ Cái bang. Mấy người bên trong cười vang, vén rèm bước ra, quả thực chính là chưởng môn các phái bạch đạo. Thuần Thanh đạo trưởng chưởng môn phái Võ Đang dơ ngón tay cái khen ngợi: - Thí chủ quả xứng danh truyền nhân của Báo Ứng Lang Quân. Năm vị chưởng môn an tọa. Đại Đầu Cái chăm chú quan sát Chính Lan, nghiêm giọng hỏi: - Vì sao Trọng thiếu hiệp lại đi chung với Hán Trung Tam Hiệp đến đây? Chàng bèn kể lại việc mình đi ngang Thái An, tình cờ cứu được ba gã ngốc. Lão vẫn còn nghi ngờ, bảo chàng: - Phiền thiếu hiệp cho bọn lão phu xem thử tấm áo choàng kia. Chính Lan thản nhiên cởi nút thắt, trao cho lão. Đại Đầu Cái sờ nắn rồi dí mép áo vào ngọn lửa của cây nến trên bàn. Lạ thay lớp vải đen bóng kia không hề bốc cháy. Đại Đầu Cái gật gù: - Gia sư từng kể rằng Hắc Tằm Bảo Y không sợ lửa, mưa chẳng thấm, quả là vật báu thế gian. Quảng Tâm thiền sư lên tiếng: - Báo Ứng Lang Quân vắng mặt đã bảy mươi năm, chắc đã tạo hóa từ lâu. Lão nạp mạo muội muốn biết Trọng thí chủ tìm được di học trong trường hợp nào? Báo Ứng Lang Quân xưa kia luôn mang mặt nạ và không xưng tên, nên chẳng ai biết Trọng Phú Lan là tên thật của lão ta. Do đó, Thiền Sư lại tưởng đó là tên họ của Chính Lan. Chàng đã chuẩn bị từ trước nên kính cẩn đáp: - Tại hạ quê ở Tứ Xuyên, năm hai mươi tuổi lên núi Đại Thê sơn hái thuốc, tình cờ tìm thấy nơi tạo háo của Báo Ứng Lang Quân. Nhờ vậy tại hạ luyện thành pho Cuồng Lãng Chưởng Pháp và khinh công Ngự Phong Thân Pháp, hạ sơn được ba tháng nay. Đại Thê sơn ở phía đông nam Tứ Xuyên, cách Vân Mộng sơn đến hơn ngàn dặm, nên chẳng ai nghi ngờ chàng là Chính Lan được. Nhưng Đạo Huệ sư thái lại nói một câu làm chàng giật mình: - Tứ Xuyên quả là vùng đất địa linh nhân kiệt. Âu Dương công tử thì xuất phát ở Đại Tuyết sơn, còn Trọng thí chủ thì học nghệ ở Đại Thê sơn. Chính Lan cố tỏ vẻ thản nhiên: - Tại hạ có biết ngọn núi ấy ở phía tây bắc Tứ Xuyên, cách Đại Thê sơn gần ngàn dặm. Chàng hỏi lại họ: - Vì sao chư vị chưởng môn lại nảy ra ý định thành lập Hồng Điểm hội? Khánh Hư chân nhân hắng giọng rồi kể: - Trọng thí chủ mới xuất đạo nên không biết công trạng của Âu Dương công tử đối với võ lâm và bách tính. Người này tuổi trẻ, tài cao, nhân phẩm xứng danh kỳ hiệp. Âu Dương công tử vì thù riêng mà giết chết Phú Quí hội chủ Hà Lăng tức Hy Văn Cư Sĩ Lăng Thiên Các. Bọn bần đạo có giao tình với cư sĩ nên đem thi thể về mai táng. Nào ngờ khi khâm liệm mới phát giác ra một danh sách bí mật. Nghĩa là Phú Quí hội từ lâu đã âm mưu khuynh đảo võ lâm, gài nội gián vào các môn phái, chờ ngày cướp ngôi chưởng môn. Nhờ danh sách ấy, các phái đã tiêu diệt được mầm mống nội loạn, nhưng vì danh dự nên chẳng tiết lộ ra. Sau này, Âu Dương công tử lại đến Bắc Kinh tiêu diệt bè lũ Ngụy Trung Hiền, cứu nguy cho xã tắc, được lê thứ Trung Hoa hết lời ca ngợi. Nhưng chàng ta thọ trọng thương, bị bức bách phải đem nạp mình và bảo kiếm Long Tuyền ra chuộc mạng cho thê thiếp và bằng hữu. Nay thê tử và thân quyến của Hồng Nhất Điểm bị Bạch Liên giáo giam cầm, khiến cả võ lâm phẫn nộ. Bọn bần đạo chẳng thể khoanh tay, bèn bàn bạc lập ra Hồng Điểm hội, qui tụ anh hào để tiêu diệt Bạch Liên giáo. Chính Lan cười mát: - Chưa tìm được nơi giam giữ con tin, dẫu triệu tập cả vạn người cũng vô ích thôi. Đại Đầu Cái tủm tỉm cười: - Thiếu hiệp tưởng cái bang là một lũ vô dụng hay sao? Chính Lan hoan hỉ phi thường: - Té ra bang chủ đã tìm ra rồi ư? Họ bị giam giữ ở địa phương nào vậy? Đại Đầu Cái lạnh lùng: - Chư vị bảo rằng biết rõ tọa lạc của họ, sao còn hỏi làm gì? Chính Lan cười đáp: - Quả đúng như vậy, nhưng chỉ hai người thôi. Chàng bèn kể lại việc Liễu Thi Mạn đang ở Vu Hồ, và Hỏa chân nhân đi Tây Vực cầu viện. Đạo Huệ sư thái mừng rỡ nói: - Hay lắm, chờ Tây Môn thí chủ vào đến, chúng ta phối hợp khởi sự được rồi. Chính Lan không tán thành: - Tại hạ cho rằng chúng ta phải cứu thân quyến của Chính Lan trước đã. Đêm dài lắm mộng, biết đâu Bạch Liên giáo sợ hãi, di chuyển tù nhân đi nơi khác thì sao? Đại Đầu Cái rầu rĩ nói: - Họ bị giam cầm ở một nơi hiểm địa, phải có bậc đại cao thủ êm thắm đột nhập, bảo vệ các con tin, thì lực lượng bên ngoài mới tiến vào được. Nếu không, phút chót bọn Bạch Liên giáo kề đao vào cổ vợ con Chính Lan, vậy chúng ta có dám xuất thủ hay không? Nhị ngốc nãy giờ chẳng được nói câu nào, chụp lấy cơ hội, vỗ ngực xưng tên: - Bang chủ cứ chỉ rõ địa điểm, dẫu long đàm hổ huyệt, anh em tại hạ cũng không hề chùn bước. Đại Đầu Cái cười khẩy: - Để ta nói cho bọn ngốc các ngươi được rõ, nơi ấy là một sơn cốc bốn vách dựng đứng cao năm chục trượng, đường vào hẹp bằng bốn bước chân. Hai bên vách đá của đoạn đường mười trượng ấy đều có những khoảng lõm chứa mười tám đao thủ. Chỉ cần một tên lên tiếng báo động là kế hoạch giải cứu tù nhân thất bại. Tình hình như vậy đấy, mong Hán Trung Tam Hiệp liệu mà hành động. Ba gã ngốc tái mặt, le lưỡi, ngồi im thin thít. Chính Lan tư lự hỏi: - Sơn cốc ấy ở đâu? Đại Đầu Cái Lô Chính Ngôn hờ hững đáp: - Phong Nhân cốc trong núi Hành sơn, phủ Hồ Nam. Hán Trung Tam Ngốc nghe nói đến chỗ ở của người cùi hủi, kinh hãi rú lên ghê sợ. Nhị ngốc buột miệng lẩm nhẩm: - Thế thì thê tử Âu Dương đại ca đã lây bệnh phong rồi, còn cứu về làm gì nữa? Chính Lan đã học qua y đạo nên biết rằng bệnh phong không lây. Chàng khẳng khái nói: - Tại hạ tự tin có thể tiến vào một cách êm thắm, bảo vệ an toàn cho tù nhân. Khi nghe tiếng hú của tại hạ, lực lượng bên ngoài có thể yên tâm tiến vào. Quảng Tâm thiền sư e hèm rồi nói: - Thí chủ có nhiệt tâm nhận lấy sứ mạng nguy hiểm, bọn lão nạp rất cảm kích. Nhưng vì việc này có liên quan đến sinh mạng của gia quyến Âu Dương công tử, lão nạp đành mạo muội muốn thử xem bản lãnh của thí chủ đến đâu. Thiền sư cẩn trọng như vậy cũng là phải đạo. Mười năm luyện tập chẳng thể xem là đáng kể. Chính Lan nghiêm giọng: - Tại hạ thừa hưởng của Báo Ứng Lang Quân mười viên thiên niên Tuyết Liên Tử, nên có hơn sáu mươi năm công lực trong người. Thiền Sư không cần phải nương tay. Năm vị chưởng môn giật mình kinh hãi, không ngờ chàng trai này lại có tu vi thâm hậu như vậy. Tuy nhiên, họ vẫn phải thử thách mới yên lòng giao nhiệm vụ được. Cả chín người ra khoảng đất trống phía trước. Bọn đệ tử Cái bang lập tức đốt đuốc sáng trưng. Phương trượng Thiếu Lâm hiền hòa nói: - Lão nạp sẽ dùng pho Giáng Ma thần chưởng. Mời thí chủ xuất thủ trước. Chính Lan vòng tay chào rồi xuất chiêu Đông Hải Phù Lâu. Chàng sợ năm vị chưởng môn nhận ra Thái Chân khí công nên không sử dụng thủ pháp vô thanh, cố tình để chưởng phong phát ra ào ạt, mãnh liệt như giông bão. Thiền sư vội cử chưởng đón chiêu, chưởng kình chạm nhau nổ vang rền. Quả thực đối phương cũng có công lực hơn hoa giáp như ông. Nhưng đáng khâm phục hơn cả là việc Trọng Phú Lan đánh liền một hơi tám mươi mốt chưởng. Chiêu thức của gã lại biến ảo phi thường, khiến Quảng Tâm thiền sư phải đem hết tài ba ra chống đỡ. Lúc Trọng Phú Lan dừng tay thì Quảng Tâm thiền sư đã bị đẩy lùi hai trượng. Ông không hề giận mà hoan hỉ tán dương: - Bản lĩnh của Trọng thí chủ hơn lão nạp đến mấy bậc, thật đáng khâm phục. Chính Lan vòng tay đáp: - Thiền sư xuất thủ mà không nuôi sát khí trong lòng, nhờ vậy tại hạ chiếm được chút tiện nghi. Thuần Thanh đạo trưởng cười bảo: - Xem ra tà chẳng bao giờ thắng chính. Âu Dương công tử mất rồi thì có Trọng thí chủ nối gót. Mọi người trở lại tòa trúc xá bàn bạc kế hoạch, đến nửa đêm mới đi nghỉ. ° ° ° Sáng ngày đầu tháng năm, gần ngàn chàng trai tứ xứ nô nức thượng sơn, vây quanh ba mặt lôi đài. Đó là những người ngưỡng mộ Hồng Nhất Điểm, quyết xả thân báo thù cho chàng. Ngoài ra còn có sáu, bảy trăm hào khách hiếu kỳ đến để quan chiến cho mãn nhãn. Mới đầu giờ thìn mà ánh dương quang gay gắt, ai cũng đội mũ rộng vành nên khó nhìn rõ dung mạo. Mặt sau của lôi đài dựa sát vào vách núi và có phên tre che phủ. Người ngoài chẳng thể ngờ rằng phía sau phên tre là một động khẩu rộng rãi, và có năm người đang ngồi nhìn ra. Sự xuất hiện bất ngờ của Báo Ứng Lang Quân và Hán Trung Tam Ngốc đã làm thay đổi đôi chút kế hoạch của các vị chưởng môn. Họ sẽ để ba gã ngốc họ Hồ đứng ra điều khiển đại hội, và mượn danh nghĩa ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn mà qui tụ anh tài. Nghĩa là chẳng cần phải thượng đài tỷ thí võ công. Giữa giờ thìn, Hán Trung Tam Ngốc từ trong trúc xá đi ra, hiên ngang thượng đài. Ba chiếc đầu bóng loáng kia chẳng lạ gì với võ lâm, quần hào liền xôn xao bàn tán. Hôm nay, Hồ thị tam huynh đệ y phục chỉnh tề, mày râu nhẵn nhụi, cử chỉ ung dung đúng mực. Cả ba vòng tay chào cử toạ, rồi đại ngốc sang sảng nói: - Kính cáo chư vị đồng đạo! Bọn tại hạ xin thông báo một tin vui, đó là việc Âu Dương ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn cùng Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ may mắn thoát khỏi cuộc tập kích của Bạch Liên giáo hồi tháng mười năm ngoái. Quần hùng mừng rỡ hoan hô vang dội. Đại ngốc dừng lại, chờ họ bớt phấn khích rồi mới nói tiếp: - Chính vì nhận được tin này, anh em tại hạ đã tức tốc ly khai Bạch Liên giáo, về đây tham gia đại hội này. Tại hạ trộm nghĩ ngũ đại tẩu chính là người thích hợp nhất với chức hội chủ Hồng Điểm hội, không hiểu cao kiến của chư vị thế nào? Tất nhiên đa số đồng thanh tán thành. Tuy nhiên, không hiểu sao lại có mấy trăm người im lặng, và từ trong đám ấy có kẻ phi thân lên lôi đài. Gã vòng tay nói với quần hào: - Cung bẩm chư vị anh hùng, việc ngũ phu nhân an nguy thế nào chẳng ai biết được. Biết đâu Hán Trung Tam Ngốc là nội gián của Bạch Liên giáo phái đến nói quàng, nói xiên để phá đại hội. Chi bằng chúng ta cứ tiến hành như đã định, bầu ra một hội chủ. Nếu sau này Âu Dương ngũ phu nhân xuất hiện, chức hội chủ kia sẽ giao lại cho nàng. Biến cố bất ngờ này không nằm ngoài dự kiến của các chưởng môn, chắc chắn Bạch Liên giáo sẽ cho người đến tham dự, biến cuộc tỷ võ huynh đệ thành một trường sát kiếp. Nhưng Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan đã cải trang thành một thư sinh áo vải, đứng ngay sát lôi đài, chờ cơ hội ra tay ngăn chặn. Quần hào đa số là những chàng trai trẻ tuổi, hiếu danh, hiếu sự nên tán thành ý kiến của gã lạ mặt kia. Được Đại Đầu Cái truyền âm chỉ điểm, nhị ngốc Hồ Giả điềm nhiên nói: - Kính cáo đồng đạo, bọn tại hạ có phải là gian tế của Bạch Liên giáo hay không, cuối đại hội sẽ rõ trắng đen, giờ chúng ta cứ theo ý kiến của vị huynh đài kia mà thực hiện. Nhưng hán tử kia lại chẳng chịu buông tha chỉ mặt Hán Trung Tam Ngốc mà quát vang: - Hỡi đồng đạo, chúng ta hãy giết ba gã phản trắc này để tế vong linh Hồng Nhất Điểm đại hiệp, rồi sẽ tiến hành đại hội sau. Mấy trăm đồng đạo của gã ở dưới nhất tề ủng hộ: - Giết! Và chúng ùn ùn kéo lên, khiến năm vị chưởng môn kinh hãi. Như vậy là họ phải xuất đầu lộ diện để giải vây cho Hán Trung Tam Ngốc. Đại Đầu Cái bực tức lẩm bẩm: - Chúng ta sai lầm khi coi thường cơ trí của Thái Sơn Phủ Quân. Phen này, diệu kế “ban chư ngật hổ”(17)chẳng thu hoạch được bao nhiêu thắng lợi. Nhưng các vị chưởng môn chưa kịp rời chỗ ẩn nấp đã nghe tiếng nam nhân rú lên kinh khiếp và cả tiếng quát thánh thót của nữ nhân: - Dừng tay, bổn nương là Âu Dương ngũ phu nhân đây. Lúc này trên lôi đài đang xảy ra quái sự, gã hán tử Bạch Liên giáo bị một con rắn vàng óng, dài độ hơn nửa trượng quấn quanh người, và từ mé tả lôi đài, hai bóng nữ nhân nắm tay nhau phi thân lên, đứng trên sàn tre. Nữ nhân thấp hơn dỡ nón rộng vành, để lộ dung mạo xinh đẹp và u buồn của mình. Nàng vòng tay cúi chào: - Âu Dương quả phụ Liễu Thi Mạn xin bái kiến chư vị anh hùng. Tuy ít người biết mặt nàng nhưng Hồng Quan Kim Xà là chiêu bài xác thực nhất. Quần hào phấn khởi hô vang: - Âu Dương phu nhân. Hán Trung Tam Ngốc chạy đến quì xuống, mếu máo gọi: - Đại tẩu! Thi Mạn bảo chúng đứng lên rồi quay xuống nói với đồng đạo: - Tiện thiếp xin bảo đảm anh em họ Hồ không phải là gian tế của Bạch Liên giáo. Nàng đã nói thế thì còn ai dám vu khống tam ngốc nữa. Thi Mạn quay sang lạnh lùng chỉ gã hán tử đang bị kim xà khống chế: - Gã kia, ngươi mới là người của Bạch Liên giáo. Nếu không khai thực, ta sẽ cho linh xà hạ thủ ngay. Hồng Quan Kim Xà rít lên ghê rợn, thò chiếc lưỡi ghớm ghiếc liếm mặt nạn nhân. Hắn sợ đến nhũn người, chẳng còn chút dũng khí nào nữa, run giọng gật đầu: - Phu nhân tha mạng, kẻ hèn này quả đúng là thủ hạ của Bạch Liên giáo. Quần anh ồ lên phẫn nộ. Thi Mạn cao giọng nói tiếp: - Chư vị một lòng với vong phu, khiến tiện thiếp muôn vàn cảm kích, nghe tin vội đến đây ngay. Trên đường đi, tiện thiếp phát hiện một số người có hành tung khả nghi, liền theo dõi và khám phá ra chúng là người của Bạch Liên giáo. Nghĩa là, giờ đây chúng đang trà trộn vào trong quần hào, mong chư vị cảnh giác và sẵn sàng đối phó. Âm mưu của chúng là biến cuộc thượng đài thành cảnh chém giết man rợ, phá hoại đại hội. Để tránh việc ấy, tiện thiếp xin nhận chức hội chủ Hồng Điểm hội. Hào kiệt nào muốn tham gia, xin cứ ở lại để được phiên chế vào cơ ngũ. Đối với bọn gian tế, tiện thiếp đã có cách phân biệt, chư vị cứ yên tâm. Quần hùng hoan hỉ reo hò. Một người đại diện nói: - Tại hạ kính chúc bổn hội kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công. Mọi người gân cổ gào theo: - Kỳ khai đắc thắc, mã đáo thành công. Bỗng từ vòng ngoài có tiếng người vọng vào: - Phải chăng mục đích của Liễu hội chủ là tiêu diệt Bạch Liên giáo? Thi Mạn hỡ hững đáp: - Đúng như thế. Người kia ngửa cổ cười vang: - Vậy thì lão phu là phó giáo chủ Bạch Liên giáo xin chính thức khiêu chiến, xem hội chủ có đủ tài chặt chiếc đầu này mà tế cờ hay không? Dứt lời, người ấy và ba trăm người nữa lột nón, cởi áo ngoài, để lộ tấm thanh bào truyền thống của Bạch Liên giáo. Quần hào kinh hãi dạt ra, rút vũ khí thủ thế. Họ chẳng thể xuất thủ ngay, vì đối phương đã theo đúng qui củ giang hồ khiêu chiến với hội chủ Hồng Điểm hội. Nếu nàng từ chối và ra lệnh loạn chiến thì họ mới dám xông vào, nhưng như thế thì quả là mất mặt. Thi Mạn vô cùng bối rối, quay sang hỏi ý sư tỷ là Ngô Công động chủ. Chung nương thì thầm: - Cùng lắm chị em ta liên thủ mà đối phó. Sư muội cứ phong cho ta làm phó hội chủ là danh chính ngôn thuận ngay. Thi Mạn buồn rầu đáp: - Tiểu muội nằm liệt giường mấy tháng trời, tuy đã hết bệnh nhưng võ công chỉ mới khôi phục được một nửa. Bản lãnh của Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân rất cao cường, dẫu cả hai liên thủ cũng không địch lại đâu. Bỗng nàng nghe tiếng ai vo ve bên tai: - Ngũ phu nhân cứ việc nhận lời, tại hạ là Báo Ứng Lang Quân đây. Thi Mạn vui mừng khôn xiết, cười khanh khách: - Thang Chí Quân, lão đã tới số nên mới dám đến đây. Mau thượng đài để đền tội. Đào Hoa cung chủ đã đem tới núi Cửu Hoa ba trăm cao thủ kiên dũng nhất, đủ sức tiêu diệt gần ngàn gã trẻ tuổi dở hơi kia. Nay thấy Liễu Thi Mạn xuất hiện, lão cố tình bức bách nàng giao đấu để bắt sống nàng về làm con tin, sau đó mới ra tay tàn sát. Thực ra, lão là người háo sắc nên rất thèm khát sáu người vợ của Chính Lan. Nhưng Thái Sơn Phủ Quân tức giáo chủ Bạch Liên giáo lại kiêng nữ sắc và còn có chút phẩm chất của bậc niễu hùng, nên cấm họ Thang đụng đến. Giáo chủ bảo rằng khi nào diệt trừ được Hỏa chân nhân lão mới giao các mỹ nhân cho Thang Chí Quân. Đào Hoa cung chủ đắc ý bước về phía lôi đài, nhẹ nhàng tung mình lên như đám mây vàng lơ lửng. Họ Thang mặc võ phục vàng đúng cương vị phó giáo chủ. Nào ngờ, từ vòng ngoài cũng có tiếng ai quát vang như sấm: - Khoan đã, xin đại tẩu nhường gã chết bầm kia cho tiểu đệ. Hàng rào người bị xô vạt bởi một hán tử thân cao bảy thước, da dẻ đen đủi. Gã chạy thình thịch về phía lôi đài, bám mép đài trèo lên, quì xuống trước mặt Liễu Thi Mạn, chống một tay thi lễ: - Tiểu đệ là Hồng Nhị Điểm Âu Dương Tiểu Ngưu xin bái kiến ngũ đại tẩu. Thi Mạn bối rối vì không biết gã khổng lồ này chui ở đâu ra? Nhưng nhìn dung mạo, chất phác, quê mùa của gã, nàng thấy yên tâm, gượng cười: - Ngưu đệ bất tất phải đa lễ như vậy. Tiểu Ngưu đứng lên, quay sang chỉ mặt Đào Hoa cung chủ dặn dò: - Lão cứ đứng đấy, để ta tự giới thiệu với quần hùng cái đã. Họ Thang cũng tò mò nên gật đầu chấp huận. Tiểu Ngưu quay xuống vòng tay chào cử tọa rồi nói oang oang: - Tại hạ vốn là một đứa trẻ cô nhi, bị bỏ rơi trên một chiếc thúng, trôi dạt đến cửa sau Âu Dương gia trang bên bờ hồ Côn Minh. Lúc đó, tại hạ mới lên hai, được vợ chồng Âu Dương trang chủ nhận làm dưỡng tử, năm ấy Chính Lan đại ca đã lên bốn. Tám năm sau, đại ca lên núi học võ, chỉ còn lại mình tại hạ ở nhà với song thân. Năm tại hạ mười tuổi, bị một vị kỳ nhân bắt về Hoành Đoạn sơn, và trở thành đệ tử của ông ta. Chín tháng trước, gia sư tạ thế, tại hạ trở lại Côn Minh thì mới biết phu thê Âu Dương trang chủ đều đã chết thảm, Chính Lan đại ca nổi danh Hồng Nhất Điểm, báo được gia thù nhưng cũng đã bị đám đầu sỏ Bạch Liên giáo hại chết. Vì vậy, tại hạ xưng danh Hồng Nhị Điểm, thề không đội trời chung với bọn Bạch Liên giáo. Tiểu Ngưu nói tiếng Bắc Kinh không rành, đôi lúc phải dùng đến phương ngữ Vân Nam, khiến người nghe phải nặn óc mới hiểu được. Tuy nhiên, vẻ trung thực, chất phác của gã đã thuyết phục được quần hào. Họ vui vẻ hét vang: - Hồng Nhị Điểm, hãy cố giết cho được lão Đào Hoa cung chủ, sát! Hàng ngàn cánh tay dơ lên, Tiểu Ngưu cũng vậy. Nhưng chiếc trường bào thư sinh vá víu của gã, chắc mua ở cửa hàng đồ cũ nào đấy, nên chật chội so với thân hình quá khổ, bung chỉ rách tung. Ngực Tiểu Ngưu lộ ra mớ lông đen sì. Quần hào cười vang, còn Hồng Nhị Điểm ngượng ngùng lột mớ giẻ rách ấy ra, quăng xuống sàn đấu, nói giả lả: - Chư vị thông cảm cho, tại hạ bị lường gạt nên mới mua nhầm tấm áo mục này. Gã quay sang bảo Thi Mạn: - Nếu tiểu đệ giết được lão chết tiệt kia, mong đại tẩu thưởng cho vài bộ áo mới. Thi Mạn thẹn thùng nói: - Ta hứa, nhưng Ngưu đệ phải cẩn trọng, lão ta rất lợi hại. Chính Lan đã nhận ra đứa em nuôi ngốc nghếch của mình, lòng rất hân hoan, năm ấy, song thân chàng lên Đại Tuyết sơn thăm, có kể lại việc Tiểu Ngưu mất tích khi đang đi câu cá. Gã bơi rất giỏi nên không thể chết đuối được, chắc là do ham chơi mà bỏ nhà đi phiêu bạt mà thôi. Không ngờ Tiểu Ngưu cũng đi học võ như chàng. Lúc này, Tiểu Ngưu xăm xăm bước đến trước mặt Đào Hoa cung chủ, mắng chửi xối xả: - Lão già khốn nạn, khốn kiếp kia, thì ra lão là một trong những kẻ bức bách đại ca ta phải nhảy xuống vực thẳm đấy ư? Hôm nay, Hồng Nhị Điểm ta sẽ xé xác lão ra. Thang Chí Quân giận tím mặt, vung chưởng đánh liền. Độc vụ màu hồng của Đào Hoa Mê Tâm chưởng ào ạt cuốn đến. Thi Mạn cả kinh thét lên: - Ngưu đệ coi chừng độc khí. Tiểu Ngưu vẫn không hề sợ hãi, vung quyển lao vào lưới chưởng. Thân hình gã to lớn, thô kệch mà bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, và quyền phong thổi vù vù đầy uy lực. Quyền chưởng chạm nhau nổ vang rền, chẳng ai lùi lại bước nào, tiếp tục xông vào giáp chiến. Rõ ràng là Tiểu Ngưu không hề sợ độc, thân thể rắn chắc, trúng liền mấy chưởng mà vẫn thản nhiên. Gã hoàn toàn chẳng biết sợ chết là gì, hùng hục như con dã tượng vùng Vân Nam, trả lại Đào Hoa cung chủ một quyền đau điếng. Họ Thang bị đẩy lùi hơn trượng, giận dữ gầm lên, thi triển Huyết Ảnh ma công đến độ chót, toàn thân bao phủ bởi luồng Huyết Vụ đỏ hồng. Tiểu Ngưu thấy đối phương biến mất trong luồng khí quái dị, kinh hãi quay lưng bỏ chạy, miệng la oai oái: - Ái mẹ ơi, ma quỉ hiện hình. Đào Hoa cung chủ chẳng buông tha xuất chiêu Đào Hoa Đoạt Khách, đánh thẳng vào lưng gã ngốc. Quần hùng lo lắng ồ lên, tưởng rằng Tiểu Ngưu khó thoát chết. Nhưng bất ngờ, từ dưới mép tả lôi đài, một bóng người đã bay vút lên giáng chưởng xuống đầu Đào Hoa cung chủ, không những chặn đứng được chiêu sát thủ kia mà còn đẩy họ Thang văng ngược về phía sau nửa trượng. Lão kinh hoàng nhìn người mới đến, gằn giọng hỏi: - Ngươi là ai mà dám xen vào chuyện của Bạch Liên giáo? Người kia cười nhạt: - Ta là Báo Ứng Lang Quân đời thứ hai thế thiên hành đạo, quét sạch tà ma. Dứt lời, chàng ập đến tấn công tới tấp. Hàng loạt đạo chưởng kình phách không nối nhau như sóng dữ, không để đối phương có cơ hội đổi hơi. Thủ pháp liên hoàn khoái chưởng thiên hạ vô song này khiến Thang Chí Quân rợn tóc gáy. Lão vận toàn lực chống đỡ, nhưng chỉ đến chưởng thứ chín mươi đã đuối sức, trúng liền bốn đòn vào ngực. Đào Hoa cung chủ tung mình lui đến tận mép đài mé tả, rút trường kiếm ra. Chính Lan nhìn tư thế khởi đầu, đoán ngay đối phương sắp xuất chiêu Thiên Lý Trùng Hồng trong pho Nam Thiên Kiếm Pháp. Có lẽ Thái Sơn Phủ Quân đã dạy họ Thang chiêu này để được quyền độc chiếm thanh Long Tuyền bảo kiếm? Thân ảnh Thang Chí Quân ẩn trong màn kiếm quang sáng bạc, lướt đến như tia chớp. Lão tin chắc rằng Báo Ứng Lang Quân chẳng thể sống sót dưới chiêu kiếm thần diệu này. Chính Lan mỉm cười lạnh lẽo, múa tít song thủ lao thẳng vào màn kiếm quang. Chiêu Điệp Lãng Xuyên Sơn chuyên dùng để đối phó trong những trường hợp như thế này, ba mươi sáu đạo chưởng kình hội tụ thành những quả đấm thép vỗ vào lưới kiếm. Hai mươi chín phát chưởng đều bị kiếm kình xé nát và Đào Hoa cung chủ vẫn không dừng bước. Nhưng khi lão còn cách đối phương nửa trượng, sắp đến tầm với của mũi kiếm thì bỗng phát hiện bảy luồng chân khí êm ái xuyên qua đúng những sơ hở của chiêu kiếm, giáng vào cơ thể của lão. Thang Chí Quân hự lên, văng ngược về phía sau, máu miệng phun thành vòi, ngã vật trên mặt sàn tre. Lão chưa chết, gượng bò dậy, thều thào hỏi: - Sao ngươi lại biết… được sơ hở… của kiếm chiêu? Chính Lan bước đến gần, truyền âm bảo lão: - Ta là Âu Dương Chính Lan đây lão ngốc ạ. Họ Thang uất ức thét lên nhưng tả thủ Chính Lan đã vỗ một chưởng, đánh nát lồng ngực, kết liễu đời lão ác ma. Đồng thời, phía dưới có tiếng quát vang: - Sát! Hàng ngàn người nhất tề ập vào chém giết bọn giáo đồ Bạch Liên giáo. Hán Trung Tam Ngốc, Tiểu Ngưu, Ngô Công động chủ cũng nhảy xuống tham gia. Ba trăm gã áo xanh kia đều là tay hảo thủ nên coi thường đám quân ô hợp. Nào ngờ, chỉ nửa khắc sau, chúng đã hiểu rằng phe đối phương có đến mấy trăm cao thủ bạch đạo bản lĩnh cao siêu. Thì ra các vị chưởng môn đã đưa năm trăm đệ tử kiệt xuất nhất đến Cửu Hoa sơn, mong quét một mẻ lưới lớn. Nhưng Thái Sơn Phủ Quân không đến mà chỉ phái phó giáo chủ là Thang Chí Quân đi mà thôi. Nay đã có Báo Ứng Lang Quân ra mặt đứng mũi chịu sào, năm vị chưởng môn vì đại kế lâu dài vẫn ẩn mình không xuất hiện. Chính Lan giết xong Đào Hoa cung chủ, không tham gia cuộc hỗn chiến ở dưới, mà quay sang hỏi Thi Mạn: - Phu nhân mới bình phục, sao lại khinh xuất bôn ba ngàn dặm đến đây làm gì? Giọng chàng nghiêm lạnh, hàm ý trách móc, nhưng ánh mắt không giấu được vẻ quan hoài. Thi Mạn vẫn chẳng dám khẳng định đối phương có phải chồng mình hay không, nên lúng túng, chẳng biết nói sao. Nàng im lặng một lúc, mạnh dạn hỏi: - Ma Nhãn đầu đà bảo rằng đại hiệp mang mặt nạ, chẳng hiểu có đúng hay không? Chính Lan chẳng ngờ nhãn lực của lão Nhiếp lại sắc bén như vậy, giả đò giận dữ: - Đúng vậy, cả hai đời Báo Ứng Lang Quân đều mang mặt nạ này. Tuy nhiên, tại hạ rất biết ơn nếu phu nhân không tiết lộ bí mật này ra cho cả thiên hạ biết. Thi Mạn quan sát vết mẻ ở chiếc răng cửa hàm dưới, trống ngực đánh thình thình. Nàng chẳng kể gì đến vẻ khó chịu của đối phương, tủm tỉm cười: - Tiểu muội thọ ơn cứu mạng của Trọng huynh, muốn được diện kiến một lần. Chính Lan than thầm, biết rằng người vợ tinh quái của mình đã sinh lòng ngờ vực. Chàng suy nghĩ rất nhanh, cười nhạt đáp: - Tại hạ bị ràng buộc bởi qui củ rất khắc khe là chỉ được phép cho ái thê của mình thấy mặt. Nếu phu nhân chấp nhận lấy Trọng mỗ thì việc để lộ diện mạo rất dễ dàng được thực hiện. Ngón đòn lợi hại này của Chính Lan đã khiến Thi Mạn choáng váng. Khi chưa nắm chắc lai lịch đối phương, nàng chẳng thể nào liều lĩnh được? Thi Mạn cố trấn tĩnh hỏi lại: - Trọng huynh không thấy thiệt thòi khi lấy một góa phụ như tiểu muội sao? Báo Ứng Lang Quân thản nhiên nói: - Tại hạ nghe giang hồ truyền tụng rằng Âu Dương Chính Lan đã từng thu nạp Kính Hồ Tiên Cơ, vợ cũ của Dương Châu công tử. Thế thì việc tại hạ kết duyên với phu nhân đâu phải chuyện lạ? Sao, ý của nàng thế nào? Chính Lan dứt lời, nhìn Thi Mạn bằng cặp mắt khát khao, tình tứ rồi hạ giọng: - Thú thực với phu nhân, Trọng mỗ từ ngày trị thương cho nàng đến nay, lòng lúc nào cũng mơ tưởng đến hình bóng của nàng. Chính Lan không cần phải đóng kịch mới nặn ra được ánh mắt nồng nàn ấy. Chàng thực tâm muốn xiết chặt người vợ yêu vào lòng, nói muôn vàn lời dịu ngọt và dìu nàng vào cuộc ái ân thắm thiết. Thi Mạn rùng mình, thẹn đỏ mặt và giận dữ nói ngay: - Mong Trọng đại hiệp cẩn ngôn cho. Nàng lướt về phía gã thủ hạ Bạch Liên giáo, thu hồi kim xà rồi tung mình xuống dưới, tham gia trận chiến. Chính Lan thở phào nhẹ nhõm. Nhưng lòng đau đớn vô hạn, chỉ muốn gọi nàng trở lại và thú thực ẩn tình. Nhưng sau khi tận mắt chứng kiến sự phản bội của Lôi Đao Hứa Hoa, chàng hầu như không còn dám tin vào ai nữa. Trong năm vị chưởng môn đang ngồi sau bức phên tre kia, liệu có ai âm thầm bán mình cho Bạch Liên giáo hay không? Nếu chỉ có riêng hai vợ chồng với nhau, chắc chàng đã không giấu giếm Thi Mạn. Chính Lan thẫn thờ nhìn xuống chiến trường, hài lòng khi thấy phe ta toàn thắng. Lợi hại nhất vẫn là Tiểu Ngưu, gã tả xung hữu đột, liều lĩnh lao vào lưới đao, vung quyền cước đánh bay những gã áo xanh xấu số. Da thịt Tiểu Ngưu bền chắc lạ thường, đao kiếm chém vào chỉ để lại những vết đứt không sâu và càng khiến gã thêm hung hãn. Chính Lan yên tâm, đi vào động khấu phía sau lôi đài, dặn dò Đại Đầu Cái vài câu, rồi rời Cửu Hoa sơn.
Âu Dương Chính Lan Tác Giả:Ưu Đàm Hoa -- o -- Hồi 12 Vũ hạ pháp sư phùng tử nạn Cốc trung chữ thị ngộ oan gia Nguồn:vnthuquan Mời đọc Chính Lan đi xuống hướng nam, mục tiêu của chàng là Phong Nhân cốc ở nam nhạc Hành sơn. Chàng khởi hành ngay vì muốn tránh mặt Thi Mạn, chứ không phải vì gấp gáp. Việc giải cứu tù nhân đòi hỏi một lực lượng hùng hậu và sự bố trí chu đáo. Chàng sẽ đến trước nhưng vẫn phải chờ các vị chưởng môn và đệ tử của họ. Trong tay chàng đã có tín phù của Cái bang để liên hệ với đám hóa tử đang giám sát bên ngoài Phong Nhân cốc. Tám ngay sau, Chính Lan có mặt trong một tửu quán ở vùng ranh giời giữa Hồ Bắc và Hồ Nam. Có lẽ do địa thế ấy mà tiểu trấn này có tên là Nam Bắc trấn. Đại Đầu Cái hẹn với chàng rằng đúng trưa ngày rằm tháng năm sẽ có mặt. Còn đến bảy ngày nữa nên Chính Lan chẳng vội vàng, thong thả ăn uống. Chính Lan có thói quen ăn xong mới uống vài chén rượu. Chàng chậm rãi nhấm nháp từng hớp nhỏ, ngắm nhìn đám mây trắng trôi nổi trên bầu trời mùa hạ xanh thăm thẳm. Hình bóng những người thân hiện về khiến lòng chàng quặn thắt. Trong lúc chàng giam mình dưới đáy vực, Hoàng Hoa Ma Nữ Tây Môn Tử Quỳnh, Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như và Trại Tây Thi Du Mĩ Kỳ đã hạ sinh được ba nữ hài tử đến nay chúng đã tròn mười tháng tuổi. Tội nghiệp cho chúng và Hạc nhi, còn thơ ấu mà đã phải chịu cảnh giam cầm khổ ải, và cả năm người vợ đầu ấp tay gối kia nữa. Họ lấy chàng, chẳng hưởng được mấy ngày hạnh phúc đã phải vấn khăn tang. Chính Lan bỗng chán ngán cảnh oán thù chồng chất, tranh danh đoạt lợi của chốn võ lâm. Chàng tự nhủ sau khi cứu được họ, sẽ đưa tất cả đi tìm một chốn non xanh nước biếc mà ẩn dật. Trang Tử từng nói: “Cố gắng làm điều thiện cũng gần như háo danh.” Vậy thì chàng còn lưu luyến giang hồ làm gì nữa? Ai bảo rằng rượu có thể giải sầu. Càng uống, càng nghe lòng buồn da diết, Chính Lan bùi ngùi ngâm nga nho nhỏ: “Cổ lai vạn sự đông lưu thủy Biệt quân khứ hề hà thời hoàn Thả phóng bạch lộc thanh nhai gian Tu hành tức kỵ phỏng danh san An năng tồi mi chiết yêu sự quyền quí Sở ngã bất đắc khai tâm nhan.”(18) Triết học Lão Trang luôn luôn bàng bạc trong thi văn Trung Hoa, và rõ nét nhất qua con người và thi phẩm của Trích Tiên Lý Bạch. Tư tưởng thoát tục, vô vi chính là chỗ ẩn náu cuối cùng của nhân sinh trong cuộc đời biến loạn, vô thường này. Chính Lan rót thêm chén nữa, suy nghĩ về trường hợp của Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Sơn Đông Tử Phòng kể rằng trước đây lão và họ Hách ở chung trong thủy trại Hồng Trạch hồ, nhưng cách đây hai tháng, Thiết Xuyên đã bỏ đi đâu không rõ. Chính Lan kết giao với gã đã lâu, hiểu rõ cơ trí con người trầm lặng này. Chàng cho rằng Thiết Xuyên ly khai Bạch Liên giáo, để dễ bề tìm kiếm nơi giam giữ tù nhân. Chàng thở dài nghĩ đến Lôi Đao Hứa Hoa, uống cạn chung rượu, gọi tiểu nhị tính tiền. Rời quán được vài dặm, thấy từ góc đông nam mây đen vần vũ kéo đến, Chính Lan vội thúc ngựa phi mau, tìm chỗ trú ẩn. Thấy phía trước có tòa nhà lớn nằm mé tả đường quan đạo Chính Lan phi mau đến đấy và rẽ vào. Tòa nhà này nằm chơ vơ nơi bìa rừng, cổng chính xiêu vẹo cỏ mọc đầy sân. Bốn bức tường xung quanh đã sụp đổ cả. Chỉ còn những cây cột là còn vững chắc, đỡ lấy giàn mái ngói đã dột nát. Thì ra đây là đại diện của một ngôi chùa bỏ hoang. Chính Lan định bụng sẽ ngủ lại nơi này nếu mưa kéo dài đến tối. Từ ngày rời vực thẳm, trở lại nhân gian, chàng đã quen với cảnh gội gió dầm sương, ăn quán ngủ đình. Chàng đi dạo một vòng phế tích phát hiện nhà bếp vẫn còn kín đáo, liền dẫn tuấn mã vào nơi đây. Chính Lan là người nhân hậu, luôn chăm sóc người bạn đường của mình. Cơn mưa ập đến, theo gió bay vào đến tận giữa chùa, và nhỏ qua hàng trăm lỗ thủng trên mái ngói. Chính Lan ngao ngán quan sát, thấy chỉ có khoảng trống dưới bệ thờ là khô ráo. Chàng mừng rỡ vung chưởng thổi sạch cát bụi, chui vào đấy nghỉ ngơi. Tấm áo choàng Hắc Tằm Bảo Y có thể thay thế cả chiếu lẫn chăn, quả là vật vô cùng hữu dụng. Đêm qua trời đẹp, đường bằng phẳng nên Chính Lan đi luôn đến sáng, giờ này chàng mệt mỏi chìm vào giấc ngủ. Khoảng giữa canh một, Chính Lan giật mình thức giấc vì tiếng ngựa xe khua động trước sân, và cả tiếng người trò chuyện. Hình như có đoàn xa mã nào ghé vào đây trú ẩn, vì trời vẫn còn mưa như trút nước. Lát sau, đám người kéo vào chùa, bật hỏa tập đốt đuốc, tìm chỗ không dột mà cắm. Chính Lan nhờ ánh đuốc ấy mà phát hiện mặt trước bệ thờ có vết nứt rộng bằng bề ngang một ngón tay. Chàng ngồi lên, thận trọng ghé mắt quan sát. Bọn mới đến có khoảng mười người, mặc y phục của các tiêu sư. Chàng đặc biệt chú ý đến lão già to béo, mặt xanh, râu dài đến ngực. Hai chiếc khoen vàng lủng lẳng trên thùy châu tố cáo rằng lão là người dân tộc Di ở vùng Vân Quí. Chính Lan cau mày suy nghĩ, và nhớ đến một nhân vật có tên Chiêu Thống(19)pháp sư Hoàng Bỉnh Lân. Lão ta là thầy phù thủy cao cấp nhất của toàn thể người Di, dù họ sống ở Vân Nam hay Quí Châu, Tứ Xuyên, Quảng Tây. Hoàng Bỉnh Lân cũng là đệ tử độc môn nhưng chỉ chuyên tâm nghiên cứu một ngành duy nhất, đó là mê dược. Thuốc mê của lão không giết người nhưng lại rất khó đối phó, chỉ cần hít phải một lượng rất nhỏ cũng đủ bất tỉnh, dẫu có Tỵ Độc Châu trong người cũng vô ích. Độc dược xuất phát từ nọc độc vật, còn mê dược lại điều chế từ thảo mộc. Chiêu Thống pháp sư thường qua lại giữa các tỉnh vùng tây nam để chữa bệnh cho người Di. Nhờ y thuật cao minh, lão được đồng bào xem như thánh lão. Chính Lan sinh trưởng ở Vân Nam, học nghệ tại Tứ Xuyên nên có nghe nhắc đến Hoàng Bỉnh Lân. Lúc này, Chiêu Thống Pháp Sư đã yên vị ở một chỗ ít dột nhất. Lão bực bội than thở: - Năm nay thời tiết thật quái lạ, mới đầu mùa đã mưa như thác lũ. Thật là khốn khổ cho thầy trò chúng ta. Từ đây đến Phong Nhân cốc còn đến ba trăm dặm, tha hồ dầm dãi nắng mưa. Nếu không có nghiêm lệnh của giáo chủ, ta đã giết quách bọn Hỏa chân nhân cho xong nợ. Chính Lan choáng váng, không ngờ trong cỗ xe tiêu kia lại là nhạc phụ của mình. Một gã bập bẽ nói: - Sư phụ ở Vân Nam sung sướng còn hơn thổ vương, tội gì phải nhận lời mời của Bạch Liên giáo? Gã nói tiếng Hán không rành, chứng tỏ cũng là người Di. Chính Lan cũng thắc mắc như vậy nên lắng tai nghe câu trả lời của pháp sư: - Ngươi tưởng ta vì ngàn lượng vàng mà nhận lời hợp tác với Thái Sơn Phủ Quân hay sao? Bạch Liên giáo chủ nuôi dã tâm làm hoàng đế, nhân lúc Minh triều suy yếu mà đoạt lấy cơ đồ. Lão đã hứa sẽ cắt cho ta bốn tỉnh tây nam để thành lập vương quốc của người Miêu. Chính vì vậy ta mới giúp lão bắt Hỏa chân nhân và bốn cao thủ Hỏa giáo ở Chương Phàn. Chính Lan đã hiểu ra cớ sự, thầm lo lắng cho Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy, gã đi đón Tây Môn Nhỉ, chẳng hiểu có gặp hay không mà chẳng được nhắc đến. Ưu tư thứ hai của chàng là âm mưu phản loạn của Bạch Liên giáo. Nay quân Mãn Thanh đang uy hiếp biên thùy phía bắc, nếu Bạch Liên giáo khởi sự, tình hình càng thêm nguy ngập. Chính Lan nghe cơn giận sôi lên, quyết giết cho được Thái Sơn Phủ Quân. Giờ đây, bao nhiêu tư tưởng cầu an, thoát tục đã hoàn toàn tan biến cả. Đạo gia chủ trương thanh tịnh vô vi nhưng chẳng phải là không làm gì cả. Đối với vận mệnh giang sơn và hạnh phúc của lê thứ, họ sẽ tận lực trong khả năng của mình. Lúc sinh thời, Trang tử từng đem tài biện luận sắc bén của mình để ngăn chặn những cuộc chiến phi nghĩa của các vua chư hầu. Chính Lan không có tài biện thuyết mà chỉ có ba thước gươm thiêng. Chàng gạt bỏ những ý niệm xa xôi, chú tâm suy nghĩ, cố tìm cách cứu cho được bọn Hỏa chân nhân. Chính Lan thân hoài tuyệt học nhưng lúc nào cũng khiêm tốn, thận trọng. Chàng không biết rõ bản lĩnh của Chiêu Thống pháp sư, và chẳng chắc mình chống lại nổi mê dược của lão, liền quyết định dụ lão ra ngoài. Cuối canh hai, cơn mưa dịu đi nhưng vẫn chưa tạnh, Chiêu Thống pháp sư và mười tên đệ tử ngồi dựa cột ngủ gà ngủ gật. Chính Lan nhẹ nhàng rời bỏ bệ thờ, đi lối sau, vòng ra sân trước. Chàng len lỏi đến cạnh tù xa, sờ nắn thử thùng xe. Hóa ra chúng được phủ đồng lá rất kiên cố ở bên ngoài lớp gỗ. Chính vì vậy nên chẳng cần ai canh gác cả. Lúc này tù xa đang ở tư thế quay ra ngoài, cửa sau hướng vào chùa để dễ kiểm soát. Nhờ thế, khi Chính Lan rút kiếm, thọc vào mông ngựa thì cặp tuấn mã đau đớn hí vang, kéo xe tù phóng nhanh. Chàng cũng lao theo nhưng ra đến cổng thì tung mình lên bám lấy vòm tam quan còn sót lại. Chiêu Thống pháp sư và đám thủ hạ kinh hãi rời chùa. Hoảng Bỉnh Lân thét vang: - Có kẻ cướp xe tù. Võ công của lão cao cường nhất nên nhanh chân hơn, ra đến cổng trước tiên. Chính Lan không bỏ lỡ cơ hội, bủa chưởng xuống đầu đối phương. Họ Hoàng là tay lão luyện, lúc nào cũng cảnh giác nên kịp thời cử song chưởng đón chiêu. Có điều, trong lúc bất ngờ lão chẳng thể nào dồn hết toàn lực được. Trong khi ấy Chính Lan đã huy động đến mười hai thành công lực vào chiêu Cuồng Lãng Trầm Chu. Chưởng kình chạm nhau nổ lùng bùng, Chiêu Thống Pháp Sư văng ngược về phía sau. Lão trúng năm đòn cực mạnh vào ngực và bụng, xương cốt gẫy vụn, chết ngay tức khắc. Mười gã hán tử người Di ra đến nơi, thấy sư phụ thảm tử sau chỉ một chiêu, kinh hãi bỏ chạy tán loạn. Chính Lan lướt đến, chụp cổ một tên, xách gã và xác Chiêu Thống pháp sư vào chùa. Chàng lạnh lùng hỏi: - Thuốc giải mê dược đâu? Hán tử run lên cầm cập: - Bẩm đại vương, ở trong người gia sư. Chính Lan giật tung áo pháp sư, phát hiện hai túi da hươu lớn bằng bàn tay. Chàng lại hỏi: - Túi nào là giải dược? Gã người Di mau mắn đáp: - Túi cột dây hồng là thuốc mê, còn túi cột dây trắng là giải dược. Chính Lan bế khí, mở túi thứ nhất, bốc một ít bột mịn, màu bụi đất, búng vào mặt hắn ta. Hán tử gục ngã ngay, Chính Lan bỏ ít bột màu hồng trong túi dây trắng vào miệng gã, quả nhiên cứu được. Hán tử nhìn chàng bằng cặp mắt khiếp sợ, van xin. Chính Lan hỏi thêm: - Bọn ngươi xuất phát từ tổng đàn Bạch Liên giáo phải không? Gã ngơ ngác đáp: - Không phải, sư phụ nhận được thư của Bạch Liên giáo, liền đưa bọn ta đi Chương Phàn mai phục ngay. Vẻ thành thực của gã hiện rõ trên gương mặt quê mùa. Chính Lan dịu giọng: - Vì sao bọn ngươi thấy ta giết sư phụ mà lại bỏ chạy chứ không báo thù? Hán tử ngượng ngùng đáp: - Ông ta tuy là thầy nhưng lại thường bắt học trò phải đưa vợ đến hầu hạ, cho nên ai cũng ấm ức trong lòng. Nay lão chết đi, người Di cũng chẳng hề nuối tiếc. Chính Lan mỉm cười: - Vậy thì ngươi hãy về với vợ mình đi, ta tha cho đó. Gã mừng như sống lại, chạy thẳng một nước, dù trời tối đen và vẫn còn mưa nho nhỏ. Chính Lan bỗng nhìn thấy mấy bọc hành lý để rải rác. Chàng đoán tay nải bằng gấm xanh kia là của Chiêu Thống pháp sư, liền mở ra xem. Ngoài y phục còn có phong thư và tờ ngân phiếu ngàn lượng vàng. Nhận ra dấu của tiền trang Từ Châu, chàng lẩm bẩm: - Chẳng lẽ Thái Sơn Phủ Quân đang ở nơi ấy? Nhưng Hán Trung Tam Ngốc đã lục soát hết Đào Hoa cung rồi mà? Chính Lan cất vào người, định bụng sẽ đến tiền trang Từ Châu hỏi xem đã bán tờ ngân phiếu này cho ai? Chàng lật đống y phục, xem thử còn gì nữa không, thì phát hiện vài nén vàng và một tấm đồng bài nặng chích, to hơn bàn tay. Không kịp xem kỹ, Chính Lan nhét luôn vào bụng, mau chóng trở ra ngoài, rút tiểu kiếm chặt đứt ổ khóa, bồng từng tù nhân vào. Cơn mưa đã tạnh hẳn, Chính Lan tập trung đuốc lại và xem xét. Chàng mừng rỡ khi thấy có cả Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy. Bốn người kia là Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ và ba lão già người Tây Vực, tuổi tác chắc nhỏ hơn chân nhân. Mặt mũi họ lem luốc, y phục nhàu nát, hôi hám, nhưng trên người không có vết thương nào. Cả năm đều chẳng mang giầy và chỉ mặc áo mỏng, chứng tỏ họ bị bắt khi đang ngủ. Người Hỏa giáo không sợ độc nhưng chẳng chống nổi thuốc mê của pháp sư. Chính Lan lục tìm trong đống tay nải của bọn hán tử người Di, thấy có rượu và lương khô rất nhiều. Chàng bốc thuốc giải, nhét vào miệng từng người rồi để rượu vào. Thần diệu thay, chỉ nửa khắc sau họ đã trở mình, mở mắt. Chính Lan nghiêm giọng: - Chư vị thử vận khí điều tức xem sao? Năm người lặng lẽ nghe lời, ngồi lên tọa công. Gần canh giờ trôi qua, họ vươn vai đứng lên. Hỏa chân nhân thấy xác Chiêu Thống pháp sư kinh hãi hỏi: - Các hạ là cao nhân phương nào lại giết được lão phù thủy này? Chính Lan mỉm cười: - Tại hạ nhờ đánh lén mà thành công chứ chẳng có tài cán gì cả. Đỗ Vĩnh Huy đã nhận ra Báo Ứng Lang Quân. Gã mừng rỡ bước đến vái dài: - Không ngờ cái mạng nhỏ này lại được Trọng huynh cứu sống lần nữa. Quả đúng như vậy vì nếu tháng trước chàng không xuất hiện ở Vu Hồ thì gã cũng khó sống dưới tay Bạch Liên giáo. Vĩnh Huy hoan hỉ giới thiệu: - Tây Môn lão gia, đây chính là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan, người đã chữa trị thương thế cho Âu Dương ngũ phu nhân. Chân nhân vui vẻ vỗ vai Chính Lan: - Bần đạo nghe họ Đỗ hết lời tán dương thiếu hiệp, lòng cũng muốn gặp. Không ngờ trên đường về Vu Hồ lại bị Chiêu Thống pháp sư hạ thủ. Lúc tỉnh lại nhận ra Hoàng Bỉnh Lân, bần đạo mở lời thuyết phục lão. Mới nói được có vài câu đã bị lão búng mê hồn phấn vào xe, bất tỉnh luôn. Cuối cùng lại được thiếu hiếp giải cứu. Thật là trời cao có mắt. Chân nhân chỉ ba lão già Tây Vực rồi giời thiệu: - Họ là Hỏa giáo tam hộ pháp, sư đệ của lão phu! Chính Lan thấy râu tóc, da dẻ của họ cũng đỏ như Tây Môn Nhỉ, nhưng vẻ mặt ngơ ngáo, mắt láo liên tinh nghịch. Chàng mỉm cười tự nhủ: “Không hiểu ba lão này có giống Hán Trung Tam Ngốc hay không nhỉ?” Tam vị hộ pháp lúng túng xiết lại giải lưng quần. Một lão gượng cười: - Bọn bần đạo nhịn đói đã lâu, nếu thiếu hiệp có gì ăn thì hay quá. Chính Lan gật đầu, bước đến góc xa, xách những túi rượu và lương khô đến. Vĩnh Huy chạy đi gom những mảnh gỗ rải rác trong chùa, chất thành một đống, đút bốn bó đuốc vào. Tuy ẩm ướt nhưng đều đã mục nát, chỉ lát sau đống củi cháy bừng. Chờ họ ăn no Chính Lan mới hỏi: - Chân nhân và tam vị hộ pháp có mang theo Đảo Thiên thần đạn hay không? Tây Môn Nhỉ buông đũa, thở dài: - Bần đạo vì Bình nhi mà hai mươi năm rồi không trở lại Tây Vực, xao nhãng việc cúng tế sư tổ. Xét môn qui thì là kẻ có tội, nên bị trưởng giáo sư huynh trách mắng thậm tệ. Bần đạo hết lời van xin, cuối cùng trưởng giáo cho tam vị hộ pháp vào Trung Nguyên hỗ trợ, nhưng lại không ban cho hỏa khí. Nếu muốn chế tạo, phải mất nửa năm là ít. Người thâm thấp là tứ hộ pháp Bạch Tuân. Lão đã no nê nên hào khí can vân: - Bốn huynh đệ ta liên thủ, lo gì không quét sạch Bạch Liên giáo? Thiên Hỏa Tứ Tượng trận uy lực thế nào chắc nhị sư huynh đã biết? Thì ra Hỏa chân nhân là nhị hộ pháp của Hỏa giáo. Tây Môn Nhỉ gật gù nhưng lại thở than: - Nhưng biết đối phương nhốt tù nhân ở đâu mà tìm bây giờ? Chính Lan chậm rãi nói: - Tại hạ biết. ° ° ° Đầu canh ba đêm rằm tháng năm, có một toán hắc y nhân tiến về phía Phong Nhân cốc, trong dãy núi Hành sơn. Nam nhạc Hành sơn là một trong những danh sơn của Trung Hoa. Nhưng đám hắc y nhân này đến đây chẳng phải để thưởng thức cảnh trăng treo đầu núi. Họ tản ra, ẩn mình sau những bụi cây, giám sát cửa ra vào Phong Nhân cốc. Và có một người nhanh nhẹn tiến vào đường độc đạo nhỏ hẹp và đầy hung hiểm kia. Gã núp mình sát vào vách đá, tung một nắm bột mịn rồi ve vẩy song thủ, tạo ra những trận gió nhẹ, đưa mê hồn phấn bay vào đến tận cuối đường. Lát sau, gã nghe tiếng thân người ngã xuống nền đá, liền trở ra vẫy tay gọi đồng bọn. Năm bóng người lướt đến ngay. Ánh trăng rằm soi rõ dung mạo của họ. Đó là Chính Lan, Hỏa chân nhân, Thiểm Điện Thần Kiếm và ba lão già họ Bạch. Sáu người chạy vào đường cốc đạo, phát hiện mười tám thi thể nằm im như đã chết trong những ngách nhỏ hai bên vách. Bọn Hỏa chân nhân trụ lại để trấn giữ cửa cốc, chỉ mình Chính Lan đột nhập vào trong. Trăng vàng chênh chếch đằng đông nên vùng đất dưới chân vách núi ấy không được soi sáng. Chính Lan men theo mé hữu mà đánh một vòng. Đường chàng đi chỉ toàn là cây cối, vì người trong cốc không dám làm nhà sát vách cốc, đề phòng đá trên vách lở ra, rơi xuống đầu. Nhờ vậy, Chính Lan có thể ung dung thám thính những căn nhà gỗ từ phía hậu. Chàng không thấy một người cùi hủi nào, mà chỉ toàn bọn giáo đồ Bạch Liên giáo. Khi đến căn nhà gỗ đồ sộ ở cuối, nằm đối diện với cửa cốc, cách chân vách tám trượng, Chính Lan biết rằng đây là nơi cư trú của bọn thủ lãnh Phong Nhân cốc, liền êm thắm áp sát. Trong nhà đèn vẫn sáng, và có bốn lão gìa áo vàng đang ngồi uống trà. Tuổi tác họ độ hơn sáu mươi, dung mạo phảng phất giống nhau. Người nào cũng răng hô, mũi tẹt, trán thấp và ánh mắt vô cùng tà quái. Lão có nốt ruồi trên sống mũi thở dài thườn thượt: - Chán thật, không hiểu đến bao giờ mới thoát khỏi kiếp canh tù này đây? Đã ba tháng rồi tiểu đệ không biết mùi nữ nhân là gì cả. Lão râu bạc mỉm cười: - Nếu tứ đệ ngứa nghề thì ngày mai anh em ta rời cốc, đến Trường Sa vài ngày. Tù nhân bị nhốt kỹ trong thạch lao, cửa cốc lại phòng bị nghiêm mật, có gì phải lo lắng? Hơn nữa, có ai mà lại ngờ rằng họ ở trong chốn đáng sợ này? Lão không râu nhăn nhó: - Đại ca, sao chúng ta không trở lại Chữ gia trang mà phải đầu nhập Bạch Liên giáo làm gì cho khổ thân? Thì ra lão râu bạc chính là Chữ Công Sinh, trang chủ của cơ ngơi mà Chính Lan đã cứu Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Sau khi giết chết Phú Quí hội Hà Lăng, Chính Lan định tấn công Chữ gia trang, nhưng trinh sát báo về rằng không còn một bóng người. Ngờ đâu huynh đệ Chữ trang chủ lại qui phục Bạch Liên giáo và trấn giữ Phong Nhân cốc này. Nhắc lại, lão râu bạc tức Chữ Công Sinh vui vẻ đáp lời người em: - Tam đệ, anh em chúng ta chưa kịp khởi nghiệp đã đụng phải gã Hồng Nhất Điểm. Nay Thái Sơn Phủ Quân hùng tâm vạn trượng, tài trí hơn người, trước sau gì cũng tạo dựng được cơ đồ. Lúc ấy, Chữ thị tứ huynh đệ trở thành khai quốc công thần, vinh hiển biết bao? Ba em cố nhẫn nại một chút. Lão quay sang bảo lão mặt đen: - Nhị đệ ra sau kiểm tra lại thạch lao rồi hẵng ngủ. Hôm nay đến phiên ngươi đấy. Chữ nhị gia gật đầu, đứng lên đi về phía sau. Chính Lan phấn khởi bám theo sát nút. Chàng thấy lão tiến về phía vách đá, hí hoáy mở một cánh cửu bằng gỗ đai sắt. Lão vào trong chỉ một chút rồi trở ra. Chính Lan chờ lão đi khuất, lướt đến bên cánh cửa, dồn toàn lực vào tiểu kiếm, chặt đứt ổ khoá. Nỗi thương nhớ vợ con rộn rã trong lòng, chàng lướt vào như tia chớp, công lực dồn hết ra song thủ, sẵn sàng giết sạch những kẻ cản đường. Nhưng chẳng có tên ngục tốt nào cả, và trên ổ rơm cuối động có bốn người già đang nằm co quắp dưới ánh đèn dầu leo lét. Họ chính là các trưởng bối của chàng, Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt, Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh và phu thê Tiêu trang chủ. Không thấy vợ con đâu, Chính Lan hơi thất vọng. Vậy là Bạch Liên giáo đã giam họ ở một nơi khác. Xem ra, cơ trí của Thái Sơn Phủ Quân quả là thâm hiểm, đáng mặt gian hùng. Chính Lan trở ra ngoài, đứng trước cửa thạch lao hú vang dội cả sơn cốc. Tiếng hú cao vút như muốn trút nỗi căm hờn lên tận trăng vàng. Bốn lão già họ Chữ và gần trăm tên Bạch Liên giáo hồn phi phách tán, xách vũ khí chạy đến. Chính Lan đã đóng chặt cửa nhà tù, hiên ngang chờ đợi. Dưới ánh đuốc rực rỡ của đối phương, nhãn thần chàng bừng bừng sát khí. Chữ Công Sinh thấy chàng chỉ có một mình, lão hỏi ngay: - Tiểu tử kia, ngươi là ai và vào đây bằng lối nào vậy? Chính Lan lạnh lùng buông từng tiếng: - Ta là Báo Ứng Lang Quân, kẻ đã giết Phi Hoàn đại lão và Đào Hoa cung chủ đây. Bọn ngươi mau dọn mình đền tội. Anh em họ Chữ biến sắc, không hiểu thực hay hư. Họ gầm lên hung dữ, nhất loạt xông vào. Trên tay họ là những cặp búa lưỡng nguyệt phủ dài độ năm gang lưỡi mỏng và sắc như dao cạo. Phép đánh búa đã thất truyền từ lâu, không ngờ anh em họ Chữ lại học được. Chính Lan thấy khí thế đối phương như thác lũ, bốc lên không trung xuất chiêu Lãng Đả Quần Thạch. Lưới chưởng nối nhau giáng xuống như sấm sét. Tuyệt kỹ Nhất Hạc Xung Thiên đã tạo thế thượng phong cho chàng. Lão già có nốt ruồi trên sống mũi, công lực kém nhất nên không giữ nổi vũ khí, và trúng hai chưởng vào vai hộc máu chết ngay. Hồn của lão chắc mau chóng lên đường đến thăm những kỹ viện ở Trường Sa cho thỏa chí. Lúc này, bọn Hỏa chân nhân đã vào đến nơi, phóng tay chém giết. Những đạo chưởng kình đỏ rực thiêu đốt da thịt bọn Bạch Liên giáo, khiến chúng đau đớn kêu khóc vang trời, xem ra, bản lĩnh ba lão hộ pháp họ Bạch cũng chẳng kém gì Hỏa chân nhân. Chính Lan để bọn họ đối phó với anh em Chữ Công Sinh, còn chàng gọi Thiểm Điện Thần Kiếm và vài người nữa vào thạch lao, cõng tù nhân ra. Cuối cùng, ba lão họ Chữ và đám giáo đồ Bạch Liên giáo đều bị giết sạch. Bọn Chính Lan đưu bốn lão nhân về Vu Hồ tĩnh dưỡng. Liễu Thi Mạn cũng đã có mặt ở đây, khóc vùi khi gặp lại Hỏa chân nhân và các trưởng bối. Nàng nhìn Chính Lan bằng cặp mắt ai oán, nghi hoặc, nhưng không nói một lời, chàng cũng quay đi, bỏ về tòa nhà bát giác mà tránh mặt. Chính Lan ngồi nhìn qua song cửa, ngắm mặt nước mênh mông của Vu Hồ, nhớ đến những người còn đang bị giam cầm. Chàng biết đã đến lúc mình phải thố lộ lai lịch với người thân. Bốn tù nhân kia vừa kiệt lực, vừa tuyệt vọng nên bệnh tình ngày càng xấu đi. Sự xuất hiện của chàng sẽ là liều thuốc hồi xuân đối với họ. Hơn nữa, chàng không còn chịu đựng nổi ánh mắt đau khổ của Thi Mạn nữa. Chàng đang suy nghĩ miên man thì Hỏa chân nhân bước vào. Ông nhìn chàng chăm chú rồi run rẩy nói: - Chính Lan, chẳng lẽ ngươi định để bọn ta chết cả rồi mới chịu lộ mặt hay sao? Giọt lệ già nua hiếm hoi lăn trên gò mà nhăn nheo. Lão nhân cổ quái này đã yêu thương chàng như con ruột của mình. Chính Lan không kiềm nổi niềm xúc động, sụp xuống khóc gọi: - Lão gia! Hỏa chân nhân nghe bọn Thi Mạn và Sơn Đông Tử Phòng nêu lên những nghi vấn rằng Báo Ứng Lang Quân có thể là Âu Dương Chính Lan, liền ngẩn người suy nghĩ và linh cảm rằng họ nói đúng. Tính lão nóng như lửa nên tìm đến kiểm tra ngay. Lão biết chàng rất tôn kính, yêu thương mình, tất không dám giấu. Tuy nhiên, khi chàng thừa nhận lão mới hết thấp thỏm. Tây Môn Nhỉ vui mừng khôn xiết, đỡ chàng lên, xiết chặt vào lòng, hạ giọng thì thầm: - Hài nhi, ta vẫn không tin rằng ngươi lại vắn số như vậy? Nếu không vì bọn nữ nhân sinh đẻ, bệnh hoạn liên miên thì ta đã đến Vân Mộng sơn, lần xuống Vô Uyên Để tìm ngươi rồi. Lão nói đến đây thì ở ngoài có tiếng nữ nhân bật khóc, và Liễu Thi Mạn bước vào. Chính Lan gỡ mặt nạ chạy đến ôm nàng. Cả hai khóc vùi, không nhận ra có nhiều người đã bước vào theo Thi Mạn.