Chương 25: Sấy gỗ công nghiệp sơ khai Mời đọc Trước khi rời khỏi khu vực mỏ muối thì Nguyên Quốc để lại 20 tên tù binh Mân Việt ở lại để làm việc nặng nhọc. Và hắn dạy cho diêm dân ở đây cách xây lò nung để đốt biển lấy muối. Sau đó là chỉ họ cách dùng than đá, để lại cho bọn họ hai xe trâu cùng một số dụng cụ khai thác than như búa chim để 30 tên tù binh Mân Việt lao động khai thác. Cách tách KCl khỏi dung dịch bão hòa NaCl nước biển hắn cũng chỉ bào cho các diêm dân, Nguyên Quốc không muốn mình phải ăn loại muối có vị chát cảu Kcl. Công việc coi nhu ổn định 2 ngày sau 3 đại đội của quân Đại Việt lên đường trở về căn cứ. Họ phải chuẩn bị hết sức cho trận chiến sắp tới với 1500 quân tại thành Khúc Dương. Thám báo được dải đi xung quanh phụ cận thành trì Khúc Dương, chỉ cần đại quân ở đây có động tĩnh thì Nguyên Quốc phải là người được biết sớm nhất để lên kế hoạch liệu địch. Vì binh sĩ mở rộng đến 400 người nên doanh trại cũng phải mở rộng ra rất nhiều. Thế nhưng họ không xây dụng kiên cố mà chỉ là tạm bợ. Nguyên Quốc không định chơi trò thủ thành tại đây, đơn giản khu mỏ là đường cụt, nếu bị bao vây thì đảm bảo chết không có chỗ trôn. 400 binh sĩ vẫn chăm chỉ luyện tập, những ai chưa có vũ khí thì luyện tập cùng thanh tre và khúc gỗ. Còn 100 binh hậu cần thì chỉ tập trung vào chế tạo vũ khí mà thôi, họ bị tách hẳn ra với công việc chiến đấu. Luyện tập của họ chỉ mang tính thư giãn 1 tiếng 1 ngày với đao thuẫn. Lần này đánh tan hai đạo quân tổng công 300 lính Đông Ngô nên số lượng thép non thu được lên tới 900kg, tức là gấp đôi lần trước, nhưng số binh sĩ thực chất chỉ tăng thêm 200 người vậy nên việc trang bị vũ khí thép rất là dư giả. Vì việc rèn đúc Nguyên Quốc tiến hành theo kiểu dây truyền thế nên 100 tay thợ đồng này rất nhanh quen thuộc với chú tạo thép. Tuy rằng không thể so sánh với các tay thợ lành nghề của mấy trăm hay cả ngàn năm sau nhưng so với thòi này thì đã là quá tốt. Lần này rèn kiếm Katana Nguyên Quốc có một số điều chỉnh, đó chính là chế tạo chúng dày hơn một chút, vì trong trận chiến vừa qua đã có một số trường lợp vì thanh đao quá nhẹ mà không thể tạo ra lực chém ưng ý khi va chạm với Kiếm Hai lưỡi nặng 3,5kg. Nguyên Quốc quyết định nâng trọng lượng thanh Katana phiên bản việt hóa lên 1,8kg tức là nặng hơn thanh Katana chính hiệu nửa Kg. Điều này tăng lực chém cũng như độ bền cho thanh kiếm. Sau một tuần nỗ lực cố gắng thì 100 binh sĩ hậu cần đã rèn ra 50 thanh Katana dài và 100 thanh Katana 80cm cộng thêm 50 đầu thương Tam lăng thứ. Tổng cộng họ chỉ mới dùng hết 300kg thép mà thôi. Còn đến 600kg thép chưa dùng đến xong Nguyên Quốc không tính dùng chúng chế tạo mũi tên mà hắn trích hẳn 400kg thép để chế tạo các dụng cụ như búa chim khai thác than đá, đục bào, dao và các loại dụng cụ dùng cho sản xuất khác. Nguyên Quốc dành hẳn thời gian ra để hướng dẫn một nhóm dân thiếu niên to cao hoặc các thanh niên chưa tham gia quân ngũ sử dụng các dụng cụ làm mộc bằng thép này. Nói đùa gì chứ thợ mộc cũng rất quan trọng trong việc phát triển kể cả sinh hoạt cũng như trong chiến tranh. Chỉ cần nhìn số lượng cung tên được làm ra nhiều không kể hết thì biết được rằng khi có dụng cụ tốt thì năng suất lao động sẽ cao lên bao nhiêu. Điều này trước đây không thể thực hiện được với các dụng cụ bằng đồng. Cung tên phức hợp giờ đây dã được lọc tốt hơn, vót nhẵn hơn và mỗi cánh cung được ghép bởi 3 thanh luồng già vót mỏng chứ không phải hai thanh luồng thô kêch trước đây nữa. Mũi tên vậy mà có thể bay xa thêm 20m tức là đạt đên 110 m đây là một trong những điều đáng khích lệ cho những phụ nữ và trẻ thiếu niên trong khu trại rồi. Đã qua một tuần nhưng những thám báo báo về Thành Khúc Dương vẫn chưa động tĩnh. Trong khi đó sĩ kí của quân Đại Việt đã lên cao nhất. Vũ Khí trang bị đã sẵn sang, luyện tập cũng được những tiến bộ đáng kể, nhất là 200 dân phu tải lương vốn là quân sĩ chính quy nên sức tiến bộ của họ là vượt trội. Nếu Khúc Dương không động và có thêm thời gian thì Nguyên Quốc quyết định chế tạo thêm vũ khí. Cái hắn nghĩ tới là đại nỏ có thể bắn những mũi tên to như cây lao và xa cả trăm mét. Về cấu tạo nỏ hắn chả xa lạ gì, chính cái nỏ thép mà Nguyên Quốc luôn kè kè sau lưng chính là minh chứng rõ nhất. Mọi người tự hỏi làm đại nổ thì khó khăn nhất là gì? Có người nghĩ đến cánh nỏ, dây nỏ, thân nỏ các thứ nhưng sự thật đó lại là hai bộ phận rất ít người nghĩ đến đó là cò nỏ và bộ phận động lực lên dây đà cho nỏ. Cò nỏ rất quan trọng, vì nếu cấu tạo không đủ chắc chắn và tinh tế thì sẽ có rất nhiều phiền toái. Thứ nhất đó là nếu cò nỏ quá yếu thì nó sẽ khôn giữ được dây nỏ với động lực tích trữ cực lớn. Thứ hai nếu không đủ tinh tế thì lên dây nỏ được nhưng lại không bắn ra ra được. Có những thiết kế lẫy nỏ phải dùng búa đập vào mới có thể làm bung dây nỏ. Như vậy động tác đập sẽ làm lệch đi rất nhiều hướng nhắm mũi tên.( nỏ thời Đường dùng búa để phát động). Bởi lý do này mới tạo nên việc Trọng Thủy lừa Mị Nương lấy cắp lẫy nỏ cấu tạo. Còn nói về hệ truyền động để lên dây nỏ rất quan trọng. Nếu nó không đủ tinh tế thì phải cần đến hai, ba người đàn ông trưởng thành mới có thể lên dây, điều này sẽ rất khó khăn nếu địa hình tác chiến không cho phép ví dụ lắm nỏ lên xe trâu chẳng hạn. Không thể một lúc 4,5 người đàn ông chen chúc lên dây cho nỏ được. Nhưng hai điều này đối với Nguyên Quốc chỉ là muỗi. Trong đầu hắn có ít nhất cỡ 10 thiết kế lẫy nỏ hiện đại có công dụng mạnh hơn lẫy nỏ An Dương Vương ( tham khảo tại đây nhé, ta cũng từng chế một số loại khá dễ dàng) . Với kiến thức của người hiện đại thì chế ra một hệ thống bánh răng, ròng rọc để kéo được dây nỏ chỉ bằng một người duy nhất cũng không là thách thức gì đối với Nguyên Quốc . Vấn đề là những nhiên liệu đều có sẵn chỉ trừ thân nỏ là không được, vì các loại cây như Tùng Sam, Giẻ Đỏ thì đầy ngoài rừng kia kìa, nhưng vấn đề là chúng còn tươi nguyên. Dùng gỗ tươi mà chế tạo dụng cụ thì chỉ cần nó khô đi một chút thì coi như công sức đi tong tất cả gỗ sẽ trở nên cong veo vặn vẹo. Nhưng dụng cụ gỗ là không thể thiếu trong những trận chiến kể cả sau này muốn đóng thuyền để hải chiến cùng thủy quân Đông Ngô thì cũng cần thuyền gỗ vậy. Giờ đây mới bắt đầu chặt gỗ to mà phơi sấy bằng ánh nắng mặt trời thì không thể được rồi. Quá trình này phải kéo dài thời gian cả năm trời là ít. Nhưng điều này không thể làm khó được Nguyên Quốc, đơn giản hắn sẽ xây lò sấy gỗ, vậy là kế hoạch tạo cự nỏ phải bỏ lửng nửa chừng, nhưng rất nhanh thôi hắn sẽ có được cả đống gỗ Thanh Sam và gỗ Giẻ chất lượng tốt, đến khai đó muốn chế gì thì chế ngay cả máy bắn đá cũng không phải không thể chế ra. Lò sấy gỗ thì cấu tạo không quá phức tạp. Một hầm chứa gỗ xây bằng đất sét cộng thêm trấu có hai cửa thông. một cửa lắm cánh quạt hút khí trời vào hầm chứa gỗ, một cửa lắp cánh quạt hút khí ẩm từ trong phòng ra. Than đá được đốt ở phía trên trần phả nhiệt xuống thong qua một lớp sang đồng. Điểm quan trọng là hai cánh quạt không bao giờ được ngưng nghỉ. Hệ thống quay cánh quạt qua dây culoa bằng tay được Nguyên Quốc vẽ ra để các thợ đồng chế tác. Thật ra cánh quạt cấu tạo không quá khó rèn, chỉ là họ không biết chức năng có thể thổi gió của chúng thôi. Giờ đây chiếc hầm sấy gỗ đơn sơ đã hoàn thành, những người dân thay nhau quay cánh quạt. Tất nhiên năng suất của hầm này không thể như hầm điện của hiện đại nhưng tốc độ sấy kho gỗ phải nhanh gấp cả mấy chục lần nếu so sánh để khô tự nhiên.
Chương 26: Phao Chuyên Dẫn Ngọc Mời đọc Khúc Dương vậy mà động 800 binh tiến hành truy lung sự mất tích của đội vận binh hướng Nam. Phải nói xung quanh Khúc Dương Thành có 5 vị trí cần bố quân canh phòng đó là ba mỏ đồng và một mỏ muối , cộng thêm một mỏ sắt . Mỏ đồng mà Nguyên Quốc đang chiếm đóng nămg ở phía nam Khúc Dương nên có một đội vận lương cho hai nơi này và chúng bị mất tích. Còn mỏ sắt thì mới được các chuyên gia khai khoáng Đông Ngô tìm ra và tiến hành khai khoáng nó nằm tại núi Hà Nai vị trí phía tây bắc thành Khúc Dương xa đến tận 150km đường xá rất khó khăn nên có một đội vận lương riêng di theo con đường thỷ bộ kết hợp. Còn hai mỏ đồng thì nằm tại vùng núi Húc Động phía Bắc Khúc dương 80km vậy nên chúng cũng có đội vận lương riêng hàng tháng. Lúc này đây cả hai đội vận lương phía bắc và tây bắc đã trở về nhưng đội phía nam thì không có tin tức. Chủ tướng quả nhánh quân Đông Ngô này là Lục Kiên mộ người họ hàng chi thứ trong tộc của Lục Tốn. Hắn đã mường tượng ra tinh huống không hế đơn giản ki cử ra hai nhóm thám báo mà không có tin tức phản hồi. Hai nhóm thám báo này toàn quân bị diệt, không có một ai quay trở lại, với tình huống này có phái thêm thám báo cũng là bánh bao thịt ném chó. Vậy nên sau gần 2 tuần nhẫn nhịn theo kế sách " Địch bất động ta bất động" thì cuối cũng tên này cũng không chịu nổi mà cử ra 300 lính làm tiên phong đi dò xét hai nơi quặng đồng và mỏ muối phía nam. Đi sau 300 quân tiên phong là đội ngũ 500 binh chỉ cách nửa ngày đường. Tướng tiên phong là Lăng Phong, tướng Trung quân là Lăng Phúc, cả hai đều là con cháu nhà họ Lăng tại Đông Ngô. Lần này vậy mà Lục Kiên dốc một nửa binh lực của thành Khúc Dương tiến hành truy kích kẻ thù chưa biết mặt. Điều này cũng la do Lục Kiên cũng thuộc dạng thao lược binh thư. Một tuần chờ đợi thêm mà không xuất binh là có cái lý cảu hắn. Lục Kiên đang chờ đợi sự phản hồi của binh lính từ hai khu mỏ muối và quặng đồng. Hai nơi này thiếu lương chắc chắn phải cử người khẩn cấp mà báo cáo về Khúc Dương đòi lương, nhưng tận gần 2 tuần mà ngay đến tăm cũng không sủi lên một cái. Chứng tỏ hai điều, một đoa là quân địch khá mạnh có thể tiêu diệt hết cả hai mỏ binh lính cộng thêm một đám vận lương. Hai đó là đường liên lạc giữa hai mỏ và thành Khúc Dương bị gián đoạn. Dù là tinh huốn nào thì cũng nên điều binh lực một cách mạnh nhất àm đối phó. 800 binh đã là cực hạn của Khúc Dương Thành lúc này. Nghe được tin tức này thì Nguyên Quốc họp bàn các sĩ quan và vạch ra sách lược, trong buổi họp hắn cho từng người sĩ quan quân đội phát biểu ý kiến về cách đánh. Nhưng hầu hết các ý kiến rất ngô nghê và ấu trĩ, không gì ngoại trừ mai phục chặn đánh ở các vị trí mà họ cho là có thể mai phục. Nguyên Quốc thì ở một bên kiên nhẫn phân tích từng ý kiến một về mặt chiến thuật không hợp lý cho họ nghe. Đây là một cách giảng dậy trực quan nhất mà Nguyên Quốc muốn dành cho bọn họ. Đây là những nòng cốt để sau này thành lập nên quân đội hùng mạnh của Nguyên Quốc vậy nên họ phải có năng lực tự mình lãnh quân, thế nên việc dạy dỗ là không thể thiếu được. - Thứ nhất Mân Việt và Dương Việt cũng như chúng là là tộc Việt, chúng chiến đấu cận chiến rất tốt nhất là quần nhau trong rừng. Mai phục bọn chúng rất dễ bị úp ngược lại. Qua trọng là phía sau chúng còn 500 quân lúc nào cũng có thể ập tới. Đánh đến cùng chúng ta có thể thắng nhưng cong được mấy người. Có câu thượng binh phạt mưu. Nay ta dậy các ngươi hai mưu kế của người xưa: " Ám độ Trần Thương và Phao Chuyên Dẫn Ngọc". Kế sách như sau…. Các sĩ quan nghe song thì bừng bừng tỉnh ngộ, họ nhanh tróng tỏa ra để làm những viẹc được phân phó. Vì lần này nếu chiến thắng 800 binh Đông Ngô thì sẽ có một lượng lớn sắt thép vào tay vậy nên Nguyên Quốc ra lệnh nổi lửa mà rèn đúc hết 300kg thép non cong lại thành những vật hữu dụng cho trận chiến lần này. Tiếp theo là một loạt thay đổi về mặt trang bị mà họ cần phải thực hiện trong hai hày, vì sau hai ngày quân Dương Việt sẽ áp lại đây ngay lập tức. 100 chiến sĩ thuộc hậu cần doanh không kể ngày đêm mà thực hiện ché tác các dụng cụ "gây án". 300 dân thường cùng 400 binh sĩ cũng không nhàn dỗi mà tham gia lao động theo phân công của Nguyên Quốc . Kế sách ra sao thì hạ hồi phân giải thế nhưng khí thế lao động thì cực kì náo nhiệt. Buổi chiều 3 ngày sau khi toàn bộ quân doanh của Nguyên Quốc đang ăn uống vui vẻ, thịt cá đề huề, rất là sang trọng thì một thám báo chạy nhanh vào vội vàng thưa. - Bẩm chủ công quân tiên phong của địch cong cách 5 km ( ta quy đổi luôn cho dễ hình dung nhé, cứ coi là Nguyên Quốc đã dạy bọn họ về cách ước lượng khoảng cách) - Tất cả rút lui… Nguyên Quốc dừng ăn mà ra lệnh…. Toàng bộ doanh trại già trẻ lớn bé ầm ầm rút quân, họ đã chuẩn bị sẵn từ trước vậy nên việc rút quân rất nhanh chóng, lương thực đã được Trâu , voi chuyển đi từ hai ngày trước rồi. Vậy nên việc di tản là cực nhanh, quái lạ là nơi này không có phị nữ và trẻ em mà chỉ có 400 quân chính quy mà thôi. Thì ra số người này đã sớm rút từ lâu rồi. 400 binh lính vác theo lương khô ăn cho 2 ngày và thẳng tiến vào rừng. Chỉ một lát sau nơi này vắng tanh không một bong người, chỉ còn lại những bàn tiệc đầy thịt thú rừng và cá chứng tỏ rằng nơi này đã có người từng ở mà thôi. Đến cuối giờ chiều, khi bầu trời gần như tối hẳn thì một đám quân Đông Ngô vũ trang kĩ càng xuất hiện tại khu quặng đồng doah trại. - Thưa tướng quân, lũ giặc cướp vừa mới rời đi không lâu, hẳn là chúng biết chúng ta tới nên vội vàng bỏ chạy, đồ đạc ngổn ngang… bếp lửa vẫn còn nóng. Tên tướng quân tiên phong họ Lăng tên Phong này cau mày mà tức tối, giá như đến nhanh một chút có phải đã lập được công lớn rồi hay không. - Chúng chạy hướng nào? - Thưa tướng quân chúng chạy vào rừng hướng Đông. Chúng ta có đuổi theo hay không ạ? - Không cần, hướng đông chắc chắn là lui về bên Mỏ Muối, giờ trời tối rất khó hành quân, ngày mai chúng ta đi lộ lớn về hướng mỏ muối sẽ nhanh hơn chúng đi rừng. Hạ trại nơi này ăn uống tại chỗ, kiểm tra xem trong trại của chúng có gì bất thường hay không. Quân lính Dương Việt ùa vào trong doanh trại kiểm tra chỉ thấy thức ăn thịt cá đuề huề bày trên chiếu hay chõng mà thôi, không có một thứ gì đáng nghi ngờ cả. Mấy tên đói bụng đánh bạo vớ thịt cá lên ăn bừa. Sở dĩ không ăn vì họ sợ bị hạ độc trong đó, nhưng mấy tên này ăn xong thì mãi không làm sao. vậy là Dương Việt quân ầm ầm mà tranh cướp nhau thịt cùng cơm nếp. tên Lăng Phong cũng ngồi trên chiếc chõng trẻ cao nhất, nơi này có một chiếc nồi đồng bên trong toàn là thịt heo rừng cùng rau dại. Một tên lính Dương Việt bịt bắt đến thử độc, hắn thử tận 3 miếng àm không sao, sau đó liếm mép thòm them xin tướng quân cho thử tiếp. Xong ten này bị một đá vào mông mà bay ra xa.
Chương 27: Hỏa công Mời đọc Cơm nước, thịt thà no say sau đó tất nhiên là đi ngủ rồi. Lăng Phong đang thầm nhủ mình may mắn hơn đại ca. Làm tiên phong mới có đồ ăn ngon như vậy a. Trung quân giò này không biết đang nếm sương nằm gió nơi nào. Tên tướng quân này cắt cử một số binh lính làm nhiệm vụ canh gác. Hắn khá yên tâm với hàng rào phòng thủ của khu trại này. Hàng rào cao đến 2m lại được xây bởi hai lớp khả năng công phá cực khó. Chắc có lẽ là quân giặc cướp gia cố thêm. Lăng Phong đang suy nghĩ như vậy sau đó lơ mơ mà ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Thế nhưng đến nửa đêm thì tên tiểu tướng này chợt bừng tỉnh giấc từ trong mộng đẹp bởi tiếng kêu là thất thanh, tiêng chiêng báo động ầm ĩ tiếng người gào thét cháy cổ vỡ gan trong đêm. Mở mắt ra là một mảng sáng rực như ban ngày trước mắt tên tiểu tướng này. Một mảng lửa đỏ rực khiến cho cả không gian doanh trại sang như ban ngày, hơi nóng ầm ập phả vào mặt khiến Lăng Phong tỉnh ngủ ngay lập tức. Giờ đây hắn mới phát hiện ra cổ họng của mình khô khốc đến nhường nào, cả người hắn mồ hôi ướt nhẹp. Cảm giác giờ đây của tên tướng Đông Ngô mà mình đanh bị hong khô đến héo hon trên bếp lửa. Phải rồi úc này lính Đông Ngô như một lũ kiến đang lăng xăng mà chạy trong bếp lửa đấy. Thì ra Nguyên Quốc đã ngày đêm mà chưng toàn bộ số than biến thành mười mấy thùng dầu mà dắc hết lên lều bạt, đã thế lớp tường gỗ hai lớp ở giữa là rơm cộng thêm lớp nhựa than đen nhớp nháp. Bên cạnh đó trong doanh xếp rất nhiều các đống gỗ nhỏ tẩm dầu, nhưng nhìn qua chỉ giống như củi gỗ phục vụ các lò luyện đồng mà thôi. Các cảm tử quân thì núp trong hầm ngay cạnh hàng rào trong đêm tối họ mò ra và trước tiên là châm lửa ở các đống rơm tẩm nhựa than ở hàng rào gỗ kép. Khi lửa đã thành một vòng bao vây khiến cho quân địch không thể thoát thân thì những binh sĩ này thoải mái đứng từ ngoài bắn tên lửa vào đốt lều trại. Tổng số binh phục kích chỉ có 50 người mà thôi, Lý Tứ đang vẫy tay mà bảo các an hem binh sĩ rút lui. Ở đây không còn việc của họ nữa rồi. Ngọn lửa đã bốc lên cao đến tận trời, không ai có thể thoát khỏi một trận hỏa hoạn khủng khiếp như vậy. Mà kể cả may mắn không chết vì lửa thì cũng sặc khói mà chết. Nhựa than mà cháy thì khói đên mù mịt đến nhìn cũng không nhìn được đừng nói đến thở. Ở cách xa đến mười km thì Nguyên Quốc vẫn có thể chứng kiến một vùng sang ánh lên trong bầu trời đêm. Ngọn lửa thật quá khủng bố, hắn lúc này lại nghĩ đến một người cũng rất thích dùng hỏa công như vậy đó là Ngọa Long Tiên Sinh Khổng Minh, mà giờ này đang là hàng xóm sát vách của Giao Châu. Có lẽ họ sẽ sớm gặp nhau mà thôi. Sáng ngày hôm sau khi trung quân của Lăng Phúc tiến đến khu trại quặng mỏ thì nơi đây chỉ còn lại là phế tích và tro tàn. Những xác người ngổn ngang , co quắp cháy đen la liệt khắp nơi. Tuy rằng cháy không còn hình dạnh gì thế nhưng vẫn dễ dàng thấy được cái xác nào miệng cũng há to như muốn cố nuốt lấy không khí để thở mà không được. Hai mắt Lăng Phúc trợn tròn như muốn nứt ra máu, hắn đã nhìn thấy một xác chết cháy đen bên đó là một chiếc ngọc bội bị thui cho đến nứt vỡ. Nhưng dù là như vậy hắn vẫn nhận ra đây là ngọc bội của đệ đệ. Gào thét trong điên cuồng hắn quyết phải phanh thây xé xác thủ phạm gây ra việc này. Các binh sĩ Dương Việt cũng tức giận mà cuồng thét không thôi. Họ không sợ khi thấy những xác chết của đồng tộc, chúng chỉ kích phát thú tính trong họ mà thôi. Việt tộc không có chiến binh sợ chiến, đây mới là điểm đáng sợ nhất của họ nếu đem với nông dân thuần khiết của Hán Tộc chuyển qua làm lính. - Bẩm tướng quân chúng ta phát hiện thứ này… Một tên thám báo chạy ào vào mà trình lên một vật, vậy mà là một thẻ tre theo đúng phong cách của người Hán thời này. Đây là thẻ tre được Lý Tứ theo lệnh của Nguyên Quốc lưu lại sau khi phóng hỏa. Hắn đã đóng một cọc tre khá cao và bắt mắt ngay gần doanh trại khu mỏ rồi treo thẻ tre lên, vì vậy rất dễ phát hiện ra… - Giỏi lắm… lũ khốn.. còn dám ngang nhiên thách chiến… xuất phát cho ta… nhanh xuất phát cho ta…. Thì ra đây là một bức chiến thư, lời lẽ rất xấc xược, bên cạnh đó còn miêu tả rõ địa điểm chiến đấu để quan địch dễ tìm kiếm. Quả thật là một sự kiêu ngạo đến tận trời. Như đã nói phía trước, Việt tộc cực giỏi du kích chiến. Dó là thế mạnh khi đánh nhau với quân chính quy nhà Hán, xong thế mạnh này lại không có một nửa điểm tác dụng khi lần chiến tranh này đến 7 phần lính đều là người Bách Việt phương bắc. Nếu so sánh một cách công bình thì khả năng chiến đấu trong rừng của Mân Việt, Dương Việt, và đặc biệt là Sơn Việt đều nhỉnh hơn Lạc Việt và Âu Việt. Nguyên Quốc chả điên mà đi đánh du kích với họ, hắn lại chơi bài ngược, tổ chức ra quân chính quy hơn cả quân Hán để đấu với du kích chiến của Bách Việt Phương Bắc. Chiều ngày hôm đó tại một cánh đồng bát ngát khá hiếm hoi tại vùng này, một nhóm quân sĩ ăm mặc kì dị đang ngồi đó nghỉ ngơi. Dù là ngồi nghỉ nhưng họ vẫn ngồi theo phương trận hẳn hoi. Đây chính là nhóm binh sĩ Đại Việt mặc giáp mây 100% xong giáp mây của họ giờ đã khác nhiều rồi. vì thu dược giáp da của hơn 300 lính Đông Ngô từ đầu trận chiến đến giờ nên họ đã may những lớp da này bao bên ngoài mây, và cả lót bên trong nữa. Vậy nên nhìn họ thật kì dị. Nhưng việc may các lớp da này vào có tác dụng siêu cường. Đó là tăng 1 phần phòng ngự, quan trọng nhất là chống lửa. Tiếp theo lớp da bên trong giúp cơ thể người mặc không bị cọ sát cùng mây đan nên thoải mái hơn nhiều. Một tiếng tù và vang lên toàn bộ lính Đại Việt giải trừ tư thế nghỉ ngơi mà đứng lên chỉnh lại một lần nữa phương trận, vì xa xa nơi phía tây của cánh quân này đã lố nhố xuất hiện những bong người. Đây là quân Đông Ngô đã theo hẹn của chiến thư mà đến. Thời này toan rừng và núi, trừ những vị trí chiến lược quan trọng cần tranh chấp thì quân hai bên mới dễ dàng gặp mặt nhau. Còn nếu chơi trò cút bắt thì có mà cả năm cũng chẳng thấy mựt nhau được. Vậy nên chiến thư là một phương án khá hiệu quả cho hai bên muốn gặp nhau cùng tàn sát đối phương. Lăng Phúc cũng là một kẻ có đầu óc, hắn nhận chiến thư nhưng không hề hàm hồ mà đâu đầu vào đấy mặc dù hắn đang tức giận vì huynh đệ bị giết. Tên tướng Đông Ngô này đã cử một lượng lớp thám báo đến vùng này trước và tiến hành dò xét xem có mai phục hay cạm bẫy không. Đến khi thám báo báo lại chỉ có 400 quân Lạc Việt đứng tại đồng không mà chờ đợi thì hắn mới yên tâm mà tiến quân. Nếu chỉ là ngang số quân thì hắn tin tưởng sẽ làm gỏi quân Âu, Lạc hai tộc Việt. Đơn giản vì vũ khí và trang bị quân Đông Ngô tốt hơn hẳn, bình thường thì quân Giao Chỉ với vũ khí đồng và cung yếu phả có số binh gấp 2 lần mới có thể đánh ngang ngửa quân Đông Ngô. Chính vì biết chỉ có 400 quân Giao Chỉ nên Lăng Phúc không ngại mà đem quân tiến thẳng đến ứng chiến. Còn vì sao biết đây là quân Lạc Việt, đơn giản vì Nguyên Quốc đã cho làm mấy chiếc cờ da dê nhuộm đỏ bằng mầu thực vật, sau đó lấy thanh đồng nung lên rồi vẽ biểu tượng Chim Lạc trên đó. Rồng là biểu tượng trong trí tưởng tượng của Hán Tộc , Nguyên Quốc hắn chả them, hắn muốn là văn hóa thuần Việt, và hắn sẽ một tay xây dựng nên nền văn hóa đó. Đảm bảo tốt hơn cả người Hán.
Chương 28: Khổ nhục kế Mời đọc Quân đội Giang Đông cũng không vội vã mà tấn công. Tuy những binh sĩ Dương Việt không quen xếp đội hình xong trong thời gian trú tại thành Khúc Dương thì các sĩ quan Đông Ngô tại đây cũng đã tiến hành huấn luyện cơ bản cho họ về đội hình chiến thuật. Nhìn quân Dương Việt xếp hàng cong queo một chút thế nhưng cũng ra hình một đám trường mâu binh , một đám cung thủ và một đạo kiếm hai lưỡi dài cầm thuẫn. Nhưng Lăng Phúc không cho tấn công ngay mà ra lệnh đứng tại chỗ nghỉ ngơi vì họ đã di chuyển một quãng đường dài nên khá tốn sức. Đúng lúc này một tên binh sĩ từ đội hình của quân Đại Việt cầm theo thẻ tre mà đưa đến tro Lăng Phúc. Thời này tinh thần hiệp sĩ vẫn khá nặng nề thế nên việc hai quân giao chiến không chém sứ là điều phổ biến. Tên binh sĩ đưa thư an toàn mà mon men trở về quân doanh của mình. Cầm lá thư mà Lăng Phúc bối rối vô cùng vì trong thư có đoạn viết: “ Tại hạ nghe thên Lăng tướng quân như sấm rền bên tai, trọng ngươi là anh hùng thời nay. Không muốn lấy khỏe thắng mệt. Thế nên cho ngươi nửa canh giờ nghỉ ngơi. Nếu Lăng tướng quân sợ có trá thì ta xin để quân giải giáp trước làm tin...” Lăng Phúc ngước mắt lên thì thấy cả mảng quân Lạc Việt đã ngồi cả xuống rồi giáo mác cũng hạ cả xuống. Một tia xúc động chợt ánh lên trong mắt tên tướng Đông Ngô. “ Tri kỉ a, chỉ co ngươi mới biết ta là anh hùng, ngươi trọng ta ta cũng trọng ngươi, rất tiếc người này là kẻ sát hại em trai ta nếu không sau khi tàn sát quân đội kẻ này ta cũng tha cho hắn một mạng , cho hắn quy hàng mà theo ta làm tri kỉ a. Tiếc a” Tên tướng Đông Ngô đang lẩm bẩm trong lòng. Vậy mà hắn tin tưởng Nguyên Quốc như là tri kỉ hiểu được hắn là “ anh hùng” vậy. - Toàn quân ngồi xuống nghỉ ngơi nửa canh giờ sau tiếp chiến. Toàn quân Lạc Việt đã ngồi xuống mà nghỉ, xung quanh đã khảo sát không có mai phục. Vậy thì ngồi xuống nghỉ ngơi hoàn toàn an toàn. Lăng Phúc cực xúc động mà ra lệnh. Hắn đang nghĩ đến kẻ bên kia quả là quân tử. Nhưng có đúng là Nguyên Quốc quân tử như tên tướng Đông Ngô nghĩ hay không? Chỉ thấy lúc này Nguyên Quốc đang túm cổ các sĩ quan của mình lại mà dạy dỗ.. - Các ngươi thấy chưa, nghe lời địch nhân là tướng quân ngu nhất. Các ngươi nhớ lấy mà làm bài học. Bài học tiếp theo là cái kế sách mà ta đã dạy các ngươi " Dĩ cật đãi Lao" . Chúng ta nghỉ ngơi dưỡng sức chờ quân địch mệt mỏi đến rồi mới chiến đấu. Nếu các ngươi là bên phe mệt mỏi thì tuyệt đối không tham chiến, nếu tình thế bắt buộc phai tham chiến thì phải đánh ngay lập tức không thể ngồi nghỉ ngơi như bọn bên kia đang làm. Nên nhớ có thể đang mệt mỏi sau một hồi vận động dài mà ngồi xuống nghỉ ngơi thì tuy rằng bớt mệt nhưng các cơ bắp trong cơ thể bị dãn ra không thể tiến hành chiến đấu, sức mạnh 10 phần chỉ còn 2-3 phần thôi. Các ngươi đã rõ chưa…. Chúng tướng sĩ dạ vang, trong mắt họ Nguyên Quốc mới là thần nhân, chả chém chả giết gì mà quân địch cứ nhao nhao mà chế. Không như dân Lạc Việt trước đây chiến đấu máu đổ đổ xa trường nhưng chỉ là ào ào xông lên thế nên kết quả đạt được không hề như mong muốn. Thời gian nửa canh giờ cũng sớm đi qua, binh sĩ Đông Ngô uể oải mà đứng dậy cầm lên vũ khí của họ xếp lại hàng ngũ, quân Đại Việt cũng không có thừa cơ tấn công mà cũng từ từ chỉnh lại hàng ngũ của mình. Hai bên cách nhau tầm 300m nên không hề sợ cung thủ của đối phương sẽ làm hại đến mình. Bỗng Lăng Phúc khoát tay ra hiệu, một tên khá to con Người Dương Việt vọt ra khỏi trận tiền mà đứng giữ hai trận doanh mà gào thét. Ai cũng hiểu đó là thách đấu, mẹ cái trò đấu tướng trận tiền này rất thịnh hành vào lúc này. Khi mà cả hai bên quân đội toàn là từ nông dân mà tuyển ra, kỉ luật chiến thuật không được bao nhiêu thì đánh trận lại dựa hoàn toàn vào khí thế. Vậy nên nó mới sinh ra cái trò đấu tướng nhàm chán này. Tất nhiên về sau thì lịch sử đã thải loại đi cái kiểu đánh trận không hợp lý này nhưng một tướng quân võ nghệ cao cường có thể làm nên mũi nhọn xung kích phá vỡ trận địa địch. Nói chung thời vũ khí lạnh thì võ nghệ của tướng quân gần như ngang hàng cùng mưu lược. Nguyên Quốc quay qua nhìn các sĩ quan của mình mà hỏi…. - Ai ra đánh..? Câu nói vừa ra thì cả đám nhao nhao đòi xông lên… Nhưng câu tiếp theo của Nguyên Quốc nói khá lớn để toàn quân bên Đại Việt đủ nghe. - Nhưng đánh là phải thua không được thắng… Nghe đến đây cả lũ ỉu xìu không một tên nào đứng ra… Nguyên Quốc đành phải chỉ bừa một tên sĩ quan nhỏ thó. Đã đánh thua thì phải chọn thàng nhanh nhẹn để còn chạy trốn. Phái ra to con để làm cảnh a… Tên nhỏ thó mặt xụ ra bước vè phía trước. Hắn biết đây là " Khổ nhục kế" mà Nguyên Quốc đã giảng giải nhưng mà cảm giác chịu thua quả là uất ức. Vậy nhưng khi tên này xách thanh Katana và khiên mây định đi ra chiến trường thì bị Nguyên Quốc quát giật lại. - Ngươi định đi giết người à. đổi kiếm đồng… Toàn bộ sĩ quan Đại Việt đúng là cười một mảng, mấy tên sĩ quan cấp úy về sau này cũng có một phần lấy từ nhóm binh sĩ chuyên ngiệp của thành Khúc Dương. Bọn họ đều không có tên nên Nguyên Quốc ban hết cho 200 tên này họ Lê. Cái tên sĩ quan nhỏ thó này có tên Lê Loi. Vì tên này quả thật khá giỏi võ công, học võ của Nguyên Quốc cũng nhanh, thong minh hoạt bát nhưng có cái tính là loi cha loi choi nên Nguyên Quốc đặt xừ nó tên hắn là Lê Loi. Thế nhưng cong đẹp chán trong quân đầy tên lạ như Lê Cẩu, Lê Miêu, Lê Cá… nhưng có mấy tên khôn ranh đáo để tự đặt tên cho mình rất đẹp đó là Lê Hổ, Lê Lang, Lê Đao, Lê Kiếm, Lê Cung… nói chung tục lấy tên vật dụng sinh hoạt để đặt tên của người Việt cổ là phổ biến. Điển hình nhất là Hai Bà Trưng, thật ra hai chi em nàng là con của Lạc tướng tộc Việt. Nhưng vùng àm các nàng ở là trồng dâu nuôi tằm. Mà tằm thì đẻ trứng, Trứng to khỏe gọi là trứng trắc, trứng hơi nhỏ gọi là trứng nhị. Hai bà một người là chi tên Trứng Trắc, một người là em tên Trứng Nhị. Bên Tàu phiên âm thanhg Trưng Trắc, Trưng Nhị và sử ta sau này cứ thế dùng luôn. Vậy nên tên Việt cổ đôi lúc có hơi buồn cười nhưng lại không hề mang hàm nghĩa xúc phạm. ( Ngay cả ngày nay tại dân tộc Mường vẫn có thói quen này ví dụ như một người mình biết đó là bà Đinh thị Chó, ông Đinh Văn Khùng… v.v.). Lê Loi vác theo thanh Kiếm đồng hai lưỡi to bản và chiếc kiên mây gào thét mà lao ra, hắn không thể không đánh lên khí thế, chủ công dặn rồi, diễn khôg giống tối nhịn cơm. Thôi vì miếng ă mà cố làm ra vẻ vậy. Tên Lê Loi diễn giả thành thật, chiến binh là thế, họ không phải diễn viên. Nhất là Việt Tộc chân chất thật thà, là chiến binh ưu tú, thế nên ki lâm chiến thì hắn quên béng luôn là phải thua mà tiến hành chiến đấu thật sự.
Chương 29: Về ăn cơm Mời đọc Trên chiến trường trung tâm hai đối thủ lao vào nhau, tên sĩ quan bên Đông Ngô cũng là người bách việt nhưng cực kì to khỏe, cơ bắp cuồn cuộn. Hắn cầm một cái thuẫn gỗ dày cộm to bản cộng thêm một thanh Kiếm sắt hai lưỡi dài và to quá mức bình thường. So với đó thì Lê Loi lại nhỏ thó chỉ cao đến cằm tên kia mà thôi, thế nhưng cơ bắp của tên Lê Loi không phải long teo àm là săn chắc vào, có cảm giác như thép nguội mài đúc mang đầy tính co giãn của lò xo. Chỉ thấy trên chiến trường Lê Loi lăn bên đông lộn bên tây dùng kiên mây che chắn mà tránh và chạm trực tiếp, hắn dùng kiếm đồng nhanh nhẹn khía vào những vị trí sơ hở phần thắt lưng đổ xuống cảu tên to con kiến tên này lung túng vô cùng. Chiến đấu tưởng như cân bằng, thế nhưng qua vài hiệp thì tên to con lại bị Lê Loi đè đánh, đơn giản vì tên Dương Việt hết hơi rồi, mưu kế cho nghỉ xả hơi của Nguyên Quốc đã bắt đầu có tác dụng. Giờ đây tên to con chỉ biết dùng khiên to và đại kiếm khua loạn xung quanh để đuổi Lê Loi ra xa. Tên này chiến đấu không còn một chút chương pháp nào cả. Nhìn thấy cảnh này Nguyên Quốc giật cả mình, vớ vẩn kế hoạch của hắn ngâm nước cả. - Chúng binh sĩ hét thật to theo ta…… Lê Loi, cơm tối… Vậy là bên trận doanh Đại Việt một mảng ông ào có cả chiêng gõ để bắt nhịp cùng hô. - LÊ LOI, CƠM TỐI….. LÊ LOI, CƠM TÔI… NHỊN MẸ MÀY RỒI…. Cả quân đoàn Đại Việt điều biết chuyện này nên nín cười mà hô, quả thật tinh tần ra trận của họ biến thành toải mái như đi dạo. Đang chiến đấu hăng say sắp cắt cổ được kẻ địch thì Lê Loi giật bắn mình một cái. "Chết cha mải mê chiến đấu quên lời chủ công" tên này nghĩ vậy liền ôm thuẫn lăn một vòng, rồi quay đầu chạy thẳng. Nguyên Quốc nhìn cảnh này con mẹ nó chỉ còn đưa bàn tay lên vuốt trán, ông nội giả thì cũng giả cho nó thật một chút, như thế này thì quá là … không có lời mô tả. Nhưng rất may mắn là bên Đông Ngô chả để ý thua thật hay thua giả, thấy Lê Loi chạy thì sĩ khí cảu họ tăng như cầu vồng. Cả 500 quân sĩ lao lên phía trước vũ khí lăm lăm. Khoảng cánh được rút ngắn 250m…. 200m…. 150m rồi 130m… 100m… tốc độ của họ càng lúc càng cao. Thế rồi họ lao vào khu vực dưới 100m, bất ngờ dị biến nổi lên, không phải do các mũi tên tua tủa đang bay trên trời mà quân Lạc Việt bắn tới. Dị biến này xuất hiện dưới mặt đât, chỉ thấy những hàng đầu tiên của quân Đông Ngô tiền vào khu vực 90m thì tụ nhiên nghiêng ngả hết cả, ngay cả thuẫn cũng không thèm giơ lên mà đỡ tên. Bơi vì lòng bàn chân họ đau nhói. Nếu có ai đó giơ chân lên sẽ thây được lòng bàn chân họ đang cắm những chiếc đinh đồng ba chạc máu tươi đang chảy tung tóe. Cái này là tác phẩm nghệ thuật của Nguyên Quốc , nói đùa chứ sống ở thế kỉ 21 ai chả biết đến "đinh tặc" chỉ càn một đọa dây thép ngồi một lúc với cái kìm thì một tên đinh tặc có thể sản xuất mấy trăm cái đinh. Và Nguyên Quốc cũng làm y như vậy nhưng hắn mà triệt để hơn đó là đúc ra các đinh đòng ba chạc nhỏ để trẻ em mài qua cái đầu cho nhọn là được. vứt ở bãi cỏ cao một chút thì đố mà nhìn thấy. Xung quanh đây tứ bề hắn rắc đầy đinh rồi. Mà thói quen thời này là đi chân đất, nhất là Bách Việt tộc. Vậy thì chiêu này quá là hố cha rồi. Cả một lũ đau đờn lăn trái ngã phải khiến người cũng vướng đinh, sau đó là bại lộ dưới làn cung tên mà bị sát lại. Việt tộc giỏi nhất là a lô xô mà tiến lên chiến đấu, khí thế như hồng. Nhưng giờ đây lại trở thành bùa đòi mạng khi người phía trước phát hiện ra điều không đúng muốn dừng lại nhưng lại bị sóng người phía sau đẩy lên mà đạp phải đinh đồng ba chạc sau đó xẽ luống cuống bại lộ trước cung thủ của đối phương. Bên Đông Ngô cũng có cung thủ. Trong khi đồng đội của họ lao lên thì cung thủ Đông Ngô lại đứng ở khoảng cách khoảng dưới 100m mà tiến hành xạ kích vào đám lính trường thương. Xong lần này họ thất vọng rồi, rút kinh nghiệm mấy lần trước dù mặc giáp mây vẫn bị những thương vong nhẹ thì lần này Nguyên Quốc bố trí một hàng Đao thuẫn binh phía trước trường thương binh, họ sẽ làm nhiệm vụ đỡ tên cho trường thương binh ở những giai đoạn đầu. Vì lúc này hai quân chưa va chạm một chỗ thế nên cung thủ hai bên dễ dàng bắn mà không làm hại phe mình. Nhưng khi hàng đầu của hai bên áp sát thì họ bắt buộc phải bắn vọt ra phía sau quân địch. Quả thật con đường giải đinh là nỗi kinh hoàng đối với các chiến binh chân đất, người ta có câu lòng bàn chân nối đến tim. Khi bị đinh đâm trúng gan bàn chân thì quả thật đau đến tận óc, thấu đến tận tim, có lẽ đau lan cả qua gan cũng nên. Chỉ nhìn thấy các binh sĩ đang lăn lộn kêu la rồi bị tên bắn trúng là biết. Nhưng lúc này thì lui lại là quá muộn Lăng Phúc biết điều này, quay lưng lại thì sẽ bị đồ sát càng nhanh hơn mà thôi. Vậy mà một con người bằng máu và xác người được vẽ ra trong khoảng cách 100m để tiếp cận quân lạc Việt. Đã co lúc Đông Ngô binh sĩ muốn tách ra để đánh hai cánh của đám quân khốn nạn đang trợn mắt nhìn mình dẫm đinh kia. Thế nhưng tạch qua hai bên đồng thời lại là thêm người chết để dò đường , chuyện này là không thể. Hi sinh đến 150 tính mạng thì nhóm Dương Việt quân đầu tiên đã tiến lại rất gần quân Lạc việt rồi. 10m…7m…6m….5m….4… uỳnh , một mảng người biến mất trước mặt các binh sĩ hàng hai đơn giản họ bị sập xuống cái bẫy hào chỉ dài hơn 1m một chút mà thôi. hào này không sâu, chỉ tầm hơn 1m mà thôi nhưng bên dưới có tòa chông bằng trẻ nhọn. đảm bảo rơi xuống thì nằm yên … nghỉ dưới đó mà thôi. Có dược đường hào này là công sức lao động của mấy trăm dân chúng cùng phụ binh đã được điều đi trước khỏi doah trại, và một thần khí " xẻng" công binh. 300 kg sắt cuối cùng Nguyên Quốc dùng để đúc thứ bá đạo này. Chiếc xẻng thép này dùng để đào hào đắp lũy trong dã chiến thì cứ gọi là… thôi không mô tả nhiều. Xung quanh cái phương trận toàn là hào ngắn như vậy. Ừ thì hơn 1m rất dễ nhảy qua, ngảy qua rồi thì sao. đảm bảo bị thương xiên chết. Vì sau động tác nhảy là động tác lấy lại thăng bằng, toang thân sẽ trở thành bia ngắm tập đâm cho quân Trường thương Đại Việt . Đến lúc này thì quân Đông Ngô không còn một chút hi vọng mong manh nào rồi vũ khí không với tới đối phương, cung tên bắn không mấy hiệu quả. Bởi mấy hàng trường thương phía sau của quân Đại Việt đều có đeo khiên nhỏ bằng mây trên lưng, thứ này nhẹ không thêm nhiều tải trọng, cản tên tốt vậy nên mỗi đứa một cái. Trong lúc chờ đến lượt hàng mình lên "tập đâm" thì giơ tay lên mà cản tên cho lành. Trong phút chốc có hơn 100 tên Dương việt chết vì xập bẫy chông và bị xiên chết. Đến lúc này thì quân đao thuẫn thủ hai bên cánh đã lăm lăm katana mà xông lên, vì quân địch đã không còn đội hình không còn ý chí chiến đấu, mà quan trọng là họ chết quá nhiều không đủ binh lực rồi. Quân Đông Ngô có 500, chết mất một nửa, còn lại tầm 250 người nhưng trong đó là 100 cung thủ đứng từ xa bắn tên. Vậy nên số lính còn coa thể chiến đấu chỉ là 150 người dang trong bãi đinh mà thôi.