Chương 30: Kỵ Ngưu Mời đọc Nhưng cùng lúc với sự quyết định tấn công của quân Đại Việt thì một mảng la hét toán loại từ phía sau quân Đông Ngô vang lên. Thì ra trong lúc cho quân địch được " ân huệ" nghỉ ngơi cũng là lức Nguyên Quốc lén lút phái thám báo đi kêu thớt voi và 18 con trâu đã được dấu cách đây 3km trên một ngọn núi nhỏ. Thớt voi thì khỏi phải nói nhiều 18 thớt trâu này là Kỵ binh của Nguyên Quốc lúc này, ngựa không có hắn chơi trâu. Có cái con trâu tốc độ không tốt nhưng đị bộ thì khá bền, cộng với tải trọng khỏe, húc tốt hơn ngựa nên hắn chọn Trâu làm kị binh. Quan trọng một điều tìm ngựa tốt, to lớn ở đất Giao Chỉ khó như lên trời, thế nhưng "Trâu tốt" thì nhan nhản. Không thấy một vị đại úy trong quân là một con Trâu sao ( Bạch Công Ngưu ). Trâu thời này người ta chưa biết đeo khoen mũi nên khó chỉnh hướng trái phải, tụi này cực kì lì và bướng. Thế nhưng Nguyên Quốc cho đeo mấy cái khuyên đồng vào mũi thì ngoan như cún con. Mà hắn còn cho đón móng trâu bằng thép hẳn hoi, có thêm yên Trâu kiểu nhị kiều hiện đại đảm bảo ngồi rất khó ngã cộng thêm cả bàn đạp bằng đồng mà thời này chưa có. Tất cả tạo nên một đội kỵ ngưu cường đại. Nên nhớ trâu có sức tải rất tốt vậy nên toàn thân nó đều là giáp mây nhẹ tênh, mà Kỵ sĩ cũng toàn thân bọc giáp tay cầm đoản thương eo dắt katana, lưng đeo cung tên. Mặc dù chỉ có 18 tên nhưng đã là một lực lượng không thể xem thường. Hỏi xem thời này người Việt Cổ ai biết cưỡi trâu, 100% giơ tay. Ai biết cưỡi ngựa, 10% giơ tay. Vậy nên chọn trâu làm lực lượng kị binh là bá nhất rồi. Chỉ thấy 18 kỵ Trâu và một Thớt voi từ trong rừng xông ra mà lao thẳng về hậu tâm của 100 cung thủ Đông Ngô . Nói thẳng một câu trâu húc nguy hiểm gấp mấy lần ngựa húc. Cộng thêm mấy tên cung thủ đang mải mê bắn yểm hộ cho đồng đội. Lúc phát hiện ra thớt voi và 18 con trâu thì đã quá muộn rồi. Mà cung thủ yếu ớt nhất là khi bị cận thân, nhất là khi đối tượng cận thân của họ không phải dạng thường mà là 18 Kỵ Trâu và một con voi to đùng. Nói chung kì chiêu này của ông Nguyên Quốc đúng thật là khó mà đỡ. Chỉ thấy 18 con trâu phi nhanh qua một vòng (vì bị trâm vàm mông) thì ít nhất có đến một nửa cung thủ bị húc bay, chưa kể số bị trường thương đâm trúng mà chết. Nhưng qua một vòng xung phong thì trên tay 18 kỵ Trâu không ai còn thương cả. Đơn giản vì họ chưa quen với dùng thương trên lưng vật cưỡi đang phóng nhanh nên Nguyên Quốc đã dặn dò họ. Đâm xong là buông tay để tuột trường thương, nếu không bị phản lực dội ngược thì có thể gãy tay hoặc bị đẩy bay khỏi lưng trâu. Lúc này thì Thớt voi mới lao đến nơi, nó chậm hơn đồng đội Ngưu một chút. Thế nhưng sức tàn phá của nó thì bằng cả đội ngưu cộng lại. một vòng dẫm đạp, quất húc làm tán loạn cả đội hình cung thủ. Người chết như dạ xương cốy vị xéo gãy kêu răng rắc. Lúc này thì các Kỵ Ngưu đã quay đầu lại, họ rút ra Katana bên hông mà thúc trâu lao vào đám Cung binh đang chạy tán loạn. Nhớ rõ những lời dạy của chủ công " địch nhân chạy cùng chiều chém đâm thoải mái, địch nhân ngược chiều chỉ cầm chắc đao mà giơ ra thôi, nếu chém thì ngươi gãy tay trước" . Giờ đây họ cứ thế mà dập khuôn để làm thôi. Trâu húc cứ việc húc, người chém cứ việc chém. Kỵ ngưu là một cỗ mày sát nhân hiệu suất cực cao, sao trận chém người thật này thì số Kỵ Ngưu này đã tự rút ra những bài học rất đáng giá cho công tác chiến đấu sau này. Ngồi trên chiếc chòi tre cao 3m ở giữa phương trận Nguyên Quốc nhìn rõ mọi việc. Bảo sao Hổ báo Kị của Tào Tháo lại lợi hại đến vậy, chỉ nhìn 18 tên Kỵ Ngưu chim non cưỡi trâu đang tàn sát 100 tên cung thủ kia là đủ biết. Đến lúc này thì thời cơ kết thúc đã đến, Nguyên Quốc phất cờ ra hiệu cả Trường Thương Binh và đao thuẫn binh đều từng bước ép lên. Đầu tiên là đao thuẫn binh nhảy qua hào chông để tạo điều kiện cho Trường Thương binh nhảy qua. Họ đảm bảo cho trường thương binh với binh khí dài vướng víu khi vượt hào không bị đối phương làm một đòn hồi mã thương. Quân Đông Ngô thấy voi chiến và trâu điên đang tàn sát đồng đội ở phía sau thì không dàm lui về hướng đó mà chạy dạt qua hai bên. Họ thà đối mặt với đinh đồng cắm chân còn hơn bị voi dày xéo. Trong đầu họ nghĩ rằng minhg bị đinh cắm chân thì Lạc Việt quân cũng thế. Song nếu họ quay lại mà nhìn kĩ thì có lẽ tuyệt vọng mà dút kiếm tự tử cho xong. Bởi vì chân cảu tên quân sĩ nào của Đại Việt cũng có một đôi xăng đan gỗ. Quai dây có thể làm từ da thú, dây day, nhưng chính xác nó là xăng đan đế gỗ, thêm vào đó đế của chúng được đóng đinh đồng để chống mòn và tạo ma sát tránh trơn ngã. Giờ đây quân Đao thuẫn thủ đang khua Katana mà chạy như bay trên bãi đinh để chém giết đối thủ dang quay lưng với họ, đang nghiêng ngả vì chân phải đinh, đang đau đớn mà dãy dụa trên mặt đất. Đây là một trận chiến thắng ngọt ngào và hoàn hảo nhất từ trước đến nay Lạc việt có được. Không một ca tử thương nào khi số lượng quân thù còn nhỉnh hơn họ một chút. Chiến trường của Voi chiến và Ngưu chiến chả ai dám tham gia, Trường thương binh chỉ đứng từ xa xa quan sát mà thôi. Lại gần nhỡ may trúng đòn oan cũng nên. Trận chiến tươi đẹp mà kết thúc với tỉ lệ tử vong đôi bên là 412 : 0 , Nói chung mấy tên không may mắn bị tên bắn chúng phần mền cũng có tới 44 tên nhưng vết thương chả có gì đáng ngại. Chúng tự lôi ra thuốc sát trùng cùng thuốc cầm máu mà bôi cho nhau, tất cả đều hỉ hả về trận chiến thư sướng này. Tù binh có tới 103 tên trong đó có tên tướng giặc là Lăng Phúc, gã này không chết vì Nguyên Quốc hạ lệnh không giết hắn mà thôi. Sĩ quan cấp cao dạng như thằng này thong tin sẽ có ích hơn nhiều. Điểm hạn chế của quân đội Đại Việt do Nguyên Quốc mới tổ kiến ra cũng bộc lộ rõ trong trận chiến này. Binh sĩ chìm đắm trong thư sướng ai mà nghĩ tới. Nhưng là người từ hiện đại, là người của tương lai, lại là kẻ tỉnh táo nhất nơi này, Nguyên Quốc đã nhìn ra tất cả. Làm người lãnh đạo là phải nhìn ra những cái mà người ta không nghĩ đến, hay chưa nghĩ đến. Ở điểm này Nguyên Quốc làm khá tốt. Đầu tiên nois về Trường thương tuy bá đạo nhưng lạ quá thiên về phòng thủ, tốc độ không mau. Nếu đối phương không tấn công mà họ phải tiến quân thì việc giữ đội hình là khá mệt mỏi, điều này càn phải huấn luyện tốt hơn và càn thời gian. Về dao thuẫn thủ thì khá toàn điện cả công thủ và tốc độ, kể cả truy kích đối phương cũng khá tốt xong trong cả trận chiến có một số thời gian là họ chơi không mà đứng nhìn Trường Thương đánh nhau không hỗ trợ gì. Vì họ bảo vệ cánh nên nếu không có ai đánh cánh thì họ cứ đứng yên như vậy. Điều này quá lãng phí nhân lực, Nguyên Quốc quyết định sẽ chế cho lũ này một loại binh khí đó là nỏ liên phát có hộm đựng tên, lên cò bằng một thanh đòn bẩy. Tuy lực bắn chỉ 20-25m nhưng tốc độ bắn cực nhanh hỗ trợ tốt cho Trường thương binh bên cạnh họ. Tiếp theo đó là Kỵ Ngưu nhược điểm, trâu khó chuyển hướng hơn ngựa, vì ngựa chiến có thể chuyển hướng bằng kí hiệu chân đạp bụng, nhưng trâu thì không được học thứ này. Vậy nên Chiến Ngưu phải được dạy dỗ lại cho phù hợp hơn. Ngoài ra Tượng binh khi đã chiến đấu thì xung quanh nó không thể tiến hành tham gia hỗ trợ, mà một con tượng rất dễ bị vây công, vậy nên Nguyên Quốc quyết phải kiếm thêm tượng để bổ xung thành một đạo quân chính thức kế bên đạo Kỵ Ngưu. Ngày hôm này thây được sức mạnh của kỵ ngưu thì Nguyên Quốc đã mê tít mắt rồi. Chỉ cần bố trí giáp mây dày hơn, bọc da bên ngoài chống lửa thì Kỵ Ngưu có lẽ là át chủ bài trong cuộc chiến trên đất Giao Châu.
Chương 31: Kế hoạch Mời đọc Công việc dọn dẹp chiến trường và xác chết thì Nguyên Quốc để lại 150 trường thương binh ở lại làm nhiệm vụ. Cái bọn giáo dài này di chuyển chậm chạp thế nên không thể trọng dụng trong tình thế khẩn cấp được. Bởi lẽ qua khai thác tên tướng quân Đông Ngô bị bắt thì Nguyên Quốc biết được rằng có một đoàn vật lương nho nhó 50 quân sĩ Đông Ngô làm nhiệm vụ đang đi phía sau họ một ngày đường. Cái thời này rất là khổ, làm gì nghĩ gì thì đầu tiên vẫn à cái ăn. Giao thông không thuận tiện, thức ăn không mang theo nhiều được nên đã đụng đến quân đội là phải đụng đến lương thảo. Có câu nói thời này đó là "binh chưa động thì lương phải đi trước" điều này mô tả rõ ràng cho tình thế của thời đại này. Ngay cả chính quân Nguyên Quốc cũng chỉ mang theo 3 ngày đồ lương thực mà thôi. Số lương thực còn lại chuyển hết về Mỏ muối rồi. Nếu đánh cướp được nhóm lương thực nhỏ này thì Đại Việt quân cũng có thể trụ được 2 tuần theo lời tên tù binh đã khai báo. Nếu như vậy thì Nguyên Quốc hoàn toàn không cần quay về mỏ muối mà hắn sẽ thực hiện luôn kế hoạch tiếp theo của mình. Trong đám quân này có lẽ Kỵ Ngưu là tốc độ nhanh nhất và … sướng nhất… Bọn hắn đang lao nhanh về phía trước theo con lộ mà quay trở vê khu quặng đồng. Mặc dù trong lúc chiến đấu thì thám báo của Đại Việt vẫn tích cực lung diệt thám báo đối phương nhưng không thể đảm bảo không có kẻ chạy thoát. Nếu chúng quay lại báo tin cho quân vận lương thì bọn này sẽ quay đầu chạy. Ngay cả lúc này trời đã về đêm thì cũng không thể đảm bảo chúng có chạy hay là không. Chính vì vậy Kỵ Trâu được cử đi nhanh về phía trước nếu đoàn vận lương có chạy thì họ sẽ bám theo mà gây rối và cản trở tốc độ. Mười tám con trâu phóng nhanh đi trong đêm tối, cũng may tộc Việt là sống trong địa hình nhiều rừng núi lại cáo cả sông ngòi và biển cả, thức ăn thịt cá chứa nhiều protein là không quá thiếu thốn do vậy không có hiện tượng quáng gà như mấy ông Hán dân ở trung Nguyên với thức ăn thành phần chủ yếu là ngũ cốc. Vậy nên mấy tên Khỵ Ngưu này vẫn hoạt động rất tốt trog đêm tối chỉ có ánh trăng. Từ phía xa mấy Kỵ Ngưu đã phát hiện ra ánh lửa lập lòe bên trong khu trại đã từng bị đốt cháy tan hoang của khu quặng đồng. Nhứng Kỵ binh này cho Trâu thả chậm tốc độ. Họ để cho trâu nghỉ ngơi lấy lại sức sau một chặng đường dài bôn ba. Mấy con Trâu cũng đói lả rồi nên quay đầu mà gặm cỏ ngay bên đường. Quả thật kỵ binh nếu là Trâu thì có thêm một điểm lợi là không kén thức ăn. Chiến Mã thực sự rất là kém thức ăn và dễ bị bệnh nhưng điều này hoàn toàn không là vấn đề với mấy con trâu đang nhởn nha gặm cỏ kia. - Đúng như dự báo, giặc bắc không còn đủ binh nên số lượng chỉ có tầm 50 thôi, còn lại 100 người là đồng đội của chúng ta tại Khúc Dương. Một tên Kỵ Binh xuống trâu mà làm thám báo dò đường. Vậy mà mấy tên này đều là lính Khúc Dương được lựa chọn ra. Giờ đây họ thấy Đồng đội xưa đang bị gong cùm thì máu nóng sôi trào. - Đội trưởng thượng sĩ quan, theo ngài có tấn công luôn không. Chúng ta 18 kị nếu đánh bất ngờ một lượt sẽ giết được ít nhất một nửa số giặc Bắc, thêm một lượt nữa là xong rồi. - Không được, chủ công đã nói quân lệnh như núi. Không nghe là chém đầu, ngài có dặn địch bất động ta không động. địch quân nếu di chuyển hay có động tĩnh chúng ta mới ra tay. Ngươi vào theo dõi tiếp. Vậy mà tên sĩ quan lãnh đạo đội Kỵ binh khá là nhớ lời dặn của Nguyên Quốc. Căn bản là lũ binh sĩ tải lương thế nào cũng có trường Mâu, có khả năng làm tổn thương kị binh non nớt này. Vậy nên Nguyên Quốc mới dặn họ như vậy. Với Nguyên Quốc giờ đây mỗi tính mạng của binh sĩ đều là tài sản không thể hi sinh một cách vô ích được. Phải đến 10 giờ tối thì đội Đao thuẫn thủ và thớt voi mới tới nơi. Tất cả đều rất mệt và đói nhưng không ai một tiếng kêu la. Nguyên Quốc quyết đinh hỏi ý kiến các sĩ quan xung quanh thig một mảng nhao nhao đòi đánh luôn mà không muốn nghỉ ngơi. Bài học quân Đông Ngô bị Nguyên Quốc lừa cho thối mồm vẫn còn văng vẳng trong đầu họ. Đã hành quân mệt rồi thì một là đánh luôi. Hai là nghỉ đến mai rồi đánh. Mà quân số bên này là 250 người có cả kị binh tượng binh vậy thì cớ gì mà không đánh. Một loạt ánh đuôc được thắp lên nối đuôi nhau như một con rồng lửa mà bao vây lấy doanh trại quặng mỏ vốn dĩ cháy trụi. Gọi là doanh trại nhưng nơi này là một bãi than tro thì đúng hơn. Cũng may 300 xác chết được các dân phu tải lương trôn cất cả rồi. Mà kể cả vũ khí sắt của 300 tên liệt sĩ này cũng được thu gọn một chỗ, sắt cũng là tài nguyên quý giá đối với Đông Ngô chứ không phải hàng chợ. 50 quân Dương Việt nhìn quân số đông nghìn nhịt trước mặt mà nuốt khan. Thêm vào đó càng tuyệt vọng hơn là một thớt voi khổng lồ cộng thêm một dãy người cưỡi trâu kỳ dị với tay cầm giáo mác dài ngoằng. Dương Việt tinh thần chiến đấu bất khuất, thế nhưng họ không đến độ não tàn mà đi chết một cách vô nghĩa. Họ tham gia trận chiến này vì những lợi ích mà Đông Ngô ban cho, nói một cách khác họ là lính đánh thuê theo một nghĩa nào đó. Nếu là Lạc Việt xâm lược quê hương họ thì có chết năm mươi Dương Việt này cũng đánh một trận. Nhưng cuộc chiến này bản chất không phải vậy thế nên 50 Dương Việt quân hạ giáp đầu hàng. Những binh sĩ thuộc Khúc Dương thành gặp nhau mà tay bắt mặt mừng, họ hạnh phúc quá đỗi. Những dân binh thuộc đội tai lương này nghe tin đồng bạn bị mất tích thì trong đầu nghĩ rằng chắc họ đã chết cả rồi. Không nghờ rằng những đồng bạn ấy vẫn còn sống, không những thế còn sống quá tốt trong bộ lạc mới có tên Đại Việt. Tất nhiên những dân phu này không có gì kháng cự khi ra nhập vào đội quân của Nguyên Quốc rồi, lại một lần nữa quân số của hắn lại mở rộng thêm 123 người. Mà vui một chuyện những người mới thêm là binh sĩ chuyên nghiệp, sức chiến đấu cực tốt. Chỉ cần huấn luyện sơ qua là có thể chiến đấu được rồi. Những binh sĩ mới ra nhập này tạm thời dùng binh khí của quân Đông Ngô vì Nguyên Quốc không có thời gian chế tạo. Binh lực của hắn giờ đây đã lên đến con số hơn 550 binh chuyên nghiệp kể cả thám báo và Kỵ binh trong đó. Vậy nên hắn dám tiến quân đến thành Khúc Dương. Chỉ cần hắn bố trí doanh trại khéo léo ngoài Thành Khúc Dương thì đảm bảo 800 quân trong thành không thể gây được tổn thương cho nhánh quân đội của hắn. Vì sao Nguyên Quốc phải đóng quân tạo thế Bao vây Khúc Dương, đơn giản đó là hắn muốn phong tỏa tin tức mình đã khởi nghĩa. Nếu Thành khúc Dương có người lọt ra và cầu cứu viện thì hắn ngay lập tức phải đối mặt với 350 quân từ 3 khu quặng mỏ phía tây và phía bắc thành Khúc Dương tụ tập lại. Theo đường thủy thì Thủy quân không rõ số lượng của Đông Ngô có thể theo đường biển mà tiếp viện Khúc Dương từ Cửa Nam Triệu. Tuy Nguyên Quốc biết số lượng đạo quân này không thể vượt quá 1000 nhưng sẽ rất phiền toái. Mà ngay cả hai thành Bắc Đài và Kê Từ cũng chỉ cách Khúc Dương 200km mà thôi. Chỉ trong 2 tuần họ cũng có thể đánh đến đây. Mà lúc này lực lượng của Nguyên Quốc chỉ có thể đánh những trận nhỏ lẻ mà thôi.
Chương 32: Văn minh Đông Sơn của Việt tộc Mời đọc Buổi trưa ba ngày sau tại cửa Nam của thành đất Khúc Dương Một mảng hỗn độn trên lâu thành. Binh sĩ Dương Việt đang chạy tới chạy lui chuẩn bị chiến đấu. Tình hình rất căng thẳng bởi phía dưới chân thành đã xuất hiện 400 binh lính chỉnh tề vũ khí sang choang, trang phục kỳ dị. Mà tung bay trong gió là những lá quân kỳ bằng da dê với biểu tượng chim lạc của Tộc Lạc Việt và Âu Việt tại giao chỉ ( Xem tại đây https://www.facebook.com/photo.php?...413.1073741829.100024025355502&type=3&theater). Điều đáng sợ hơn nữa là xa xa vẫn đang có binh lính Lạc Việt tiến quân tới. Vì nhìn đám bụi bay mù mịt ấy chắc hẳn phải có đến vài ngàn quân. Lục Kiên cũng tim đây không phải là kế sách của người Lạc Việt bày ra, bởi người Bách Việt lúc này chiến đấu hết sức bản năng, điểm thứ hai khiến hắn nghĩ đến quân Lạc Việt phải có vài ngàn vì 800 quân của hắn đã triệt để bị đánh tan hoặc có thể bị giết hại. Mà muốn làm được điều này thì quân Giao chỉ cần phải có lượng quân gấp 3 là ít. Chính vì tư tưởng xem thường sức mạnh của quân Giao Chỉ khiến cho Lục Kiên đánh giá sai lầm về quân số của họ. Thế nhưng quân Lạc Việt không tấn công thành Khúc Dương mà để lại đó một cọc gỗ có treo một quận thẻ tre rồi rút lui. Nguyên Quốc cho quân đóng doanh trại tại một ngọn đồi thấp cách Khúc Dương 2km về phía Nam. Sau đó hắn cho quân bủa vây hết con đường dẫn ra bến tàu ở phía cửa đông và lập các trạm kiểm soát cả ngầm cả sáng phía nam. Chỉ riêng hai mặt này Nguyên Quốc đã phải tung vào đó 200 lính, trong trại chỉ còn lại 350 lính mà thôi. Sở dĩ hắn phong tỏa kĩ hai đường này vì chúng là con đường cầu viện hạm đội Đông Ngô tại Cửa Nam Triệu và hai thành Kê Từ và Bắc Đài. Còn hai mặt bắc và tây thì Nguyên Quốc mặc kệ vì kể cả Lục Kiên có kéo 350 lính từ các quặng mỏ về cũng không làm nên trò trống gì. Bởi chỉ trong vài ngày tiếp theo thôi quân số của Nguyên Quốc sẽ tăng một cách tróng mặt. Điều này không có gì là khó lý giải, nhìn những cánh đồng lúa nước bao la xung quanh Thành Khúc Dương thì Nguyên Quốc biết được đây chính là một nơi tụ tập khá đông người dan Âu- Lạc hai tộc Việt cổ. Có lẽ họ bị cướp bóc hết lương thực mùa màng, bị quân Đông Ngô tàn sát hoặc đánh tan mà phải bỏ đi. Nhưng chắc chắn họ đi không xa. Chỉ cần Nguyên Quốc dựng cờ Chim Lạc tại đây thì chẳng bao lâu những người dân đang ẩn núp trong rừng, đào các loại củ, nhặt rau dại để sống qua ngày sẽ tụ tập về đây. Khi đó số lượng quân của hắn sẽ tăng lên rất nhanh. Nói đến việc tụ tập này thì Nguyên Quốc mới để ý đến một dòng sông chảy vắt qua thành Khúc Dương mà đổ thẳng ra biển. Con song này khá lớn và có lột lượng bồi đắp không nhỏ hai ven bờ, tạo nên một dải canh tác lúa nước tại đây. Nhưng khi so sánh đối chiếu với những hiểu biết cảu Tương lai thì hắn thấy không hề có dòng song kiểu như thế này tại Phần cuối phía bắc Thành Phố Cẩm Phả thời hiện đại. Có lẽ sau ngàn năm bồi đắp con sông này đã không còn tồn tại đến thế kỉ 21. Nói chung địa hình thời này chỉ có núi và những dòng song lớn là không đổi nếu so với tương lai. Còn những dòng song nhỏ hì cực kì dễ bị bồi lấp hay chuyển hướng. Mà việc khai thong kênh đào cảu các thời vua chúa Việt tộc sau này cũng làm thay đổi hệ thống song nhỏ rất nhiều. Nói đến lúa nước và định canh định cư của Người dân Lạc Âu hai tộc mà không nhắc đến nền văn minh lúa nước là một thiếu sót trầm trọng. Chính vì có cái nền văn minh khá rực rỡ ở thời đại cuối đồ đồng này mà làm cho Nguyên Quốc có tin tưởng vào tiền vốn tranh hung thiên hạ. Người Trung Quốc và Ấn Độ luôn vỗ ngực nhận mình nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng rất sớm của thế giớ. Nhưng sự thật là Đông Nam Á hay nói cụa thể hơn là có Lạc Việt nhị tộc tại Giao Chỉ vùng mới là những người đầu tiên biết đến chăn nuôi nông nghiệp và… cây lúa. Từ 10 ngàn năm trước CN thì các bộ tộc rải rác tại vùng Đông Nam Á đã biết trồng lúa để làm lương thực, trong khi đó dấu tích về hạt lúa sớm nhất tìm thấy tại song Dương Tử lại là 6 ngàn đến 7 ngàn năm trước CN. Nền văn minh của người Việt cổ tại thời điểm mà Nguyên Quốc xuyên tới chính là thuộc Văn Minh lúa nước Đông Sơn, một trong những khúc văn minh khá chói lọi của người Việt. Lúc này đây Việt tộc đã biết dùng nhiều loại hình công cụ bằng đồng ra đời và ngày càng phong phú như lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi thuổng, xẻng, lưỡi rìu … Với việc chế tạo ra lưỡi cày và nông nghiệp dùng cày đã thay thế cho nền nông nghiệp dùng cuốc, đánh dấu bước phát triển mới, mạnh mẽ trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Với việc ra đời nhiều loại hình công cụ sản xuất bằng đồng còn chứng tỏ bước tiến về kỹ thuật canh tác của cư dân bấy giờ. Nông nghiệp dùng cày là nguồn cung cấp lương thực chính nuôi sống xã hội, trở thành cơ sở chủ yếu của mọi hoạt động khác. Nếu để cứ để các Vua Hùng Vương cứ vậy mà phát triển thì ai nói những hình kì hà trên trống đồng kia không thể biến thành một loại chữ viết. Khi có được chữ viết thì nền văn minh Đông Sơn lại sẽ càng hung mạnh hơn nữa. Tại cái thời điểm mà Nguyên Quốc xuyên đến đây nếu đánh giá một cách khách quan thì người Việt cổ lúc này vẫn khá thuần văn hóa Đông Sơn từ thời các Vua Hùng đựng lên nước Văn Lang. Mặc dù có Sĩ Nhiếp truyền bá Hán học nhưng thời gian 30 chục năm thì người Việt cổ tại lưu vực các sông Hồng, sông Mã và sông Lam vẫn không thể bị ảnh hưởng quá nhiều do Hán hóa. Sự Hán hóa mạnh mẽ nhất sẽ diễn ra vào gần 100 năm sau (304-439) do sự kiện loạn Ngũ Hồ tại miền Bắc Trung Hoa kéo theo sự rút lui của nhà Tấn về miền nam Trung Quốc. Chính sự di cư ồ ạt này mới tạo nên một cuộc Hán hóa mạnh mẽ nhất đối với người Việt Cổ. Lúc này đây khi Nguyên Quốc đã xuyên đến thời kì này thì hắn sẽ phát triển nền vinh Đông Sơn đậm bản sắc thuần Việt lên một bước tiến mới chứ không hề áp dụng nền văn hóa đã bị ảnh hưởng đậm đặc bởi Hán tộc trong tương lai. Vậy nên hắn dùng chính ngôn ngữ Việt cổ để giao tiếp, và mỗi ngày hắn đều trau rồi kiến thức cảu mình về ngôn ngữ Việt Cổ. Bộ chữ cái latin mà hắn mang lại cho người Việt chỉ để là mô phỏng lại ngôn ngữ của họ mà thôi, hắn không hề có ý định dạy tiếng Việt hiện đại cho họ. Đôi lúc hắn cũng nghĩ đến việc cải cách chữ viết đôi chút, thế nhưng nghĩ đến kết cục nhức đầu của vị Giáo Sư nọ trong tương lai thì hắn thôi luôn. Cứ đánh vần như cũ cho dễ học, tiết kiệm vài cái thẻ tre lại thêm nhức đầu, để công sức ấy đi lo việc khác ý nghĩa hơn… hiệu quả kinh tế hơn. Ngày thứ 2 sau khi đóng quân tại ngoại vi thành Khúc Dương đã có một số người dân Việt Cổ bạo gan mà lân la tiếp cận doanh trại treo lá cờ Chim Lạc hoành tráng này (https://www.facebook.com/photo.php?...413.1073741829.100024025355502&type=3&theater). Mặc dù con Chim Lạc này nhìn khá lạ mắt kiểu như con đại bàng đầy khí thế xong người dân Lạc- Âu hai tộc vẫn nhận ra đây là biểu chưng của họ mà tiến tới tiếp xúc. Các thám báo binh đã nhận được chỉ lệnh của Nguyên Quốc nên tiếp đón rất nồn hậu và dẫn họ đi gặp Nguyên Quốc . Tất nhiên sau khi được nghe giải thích và được đmả bảo thì những người dân không khổ này quá hạnh phúc mà hoan hô tung trời. Tộc nhân của họ bị giết hại, bị cướp hết lương thực mà đang sống mòn trong rừng rậm, nay được đảm bảo an toàn, được quay lại quê nhà , được công tác trên các thửa lúa nước thân yêu thì ai chả vui mừng hạnh phúc. Vậy là một cuộc hồi hương ồ ạt diễn ra chỉ trong vài ngày.
Chương 33: Catapult Mời đọc Quay lại với quân đội Đại Việt giờ đây họ đang làm gì, Nguyên Quốc và 300 quân đang bận tối mặt tối mũi với công trình xây dựng hầm sấy gỗ. Cũng may một điều cả cái mảng Lục Hải lẫn Ninh hải bộ này toàn là than đá, đi nơi nào cũng có thể gặp chẳn qua nhiều hay ít mà thôi. Có thêm hơn 2000 dân chúng thì áp lực lên số lương thực quả là lớn, từ chỗ ăn thoải mái có thể được 3 tuần thì nay ăn dè xẻn cũng chỉ được một tuần mà thôi. Nhưng bù vào đó là tốc độ công việc tăng lên chóng mặt. vì ngay cả đến mấy đứa nít ranh mới 6- tuổi cũng tham gia lao động thì đủ biết 2000 người này tạo ra sức lao động khủng bố ra sao. Việc Nguyên Quốc giờ đây làm là sấy gỗ chế tạo máy bắn đá Catapult (https://www.facebook.com/photo.php?...400.1073741827.100024025355502&type=3&theater). Nhưng tại sao hắn lại đi chế máy bắn đá Catapult mà không đi chế máy phóng tên Ballista (https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=114770896000422&id=100024025355502&pnref=story). Mà hắn cũng không đi chế máy bắn đá đối trọng Trebuchet cường đại hơn máy bắn đá Catapult rất nhiều (https://www.facebook.com/photo.php?...400.1073741827.100024025355502&type=3&theater). Đơn giản Nguyên Quốc chọng Catapult vì nó phù hợp với điều kiện hiện nay của quân Đại Việt. Và khả năng chế tạo thành công Catapult là rất lớn, hiệu quả trong việc công thành và tính đe dọa của nó cao hơn rất nhiều so với Ballista. Bên cạnh đó Catapult dễ chế tạo hơn Trebuchet rất nhiều, cùng với đó Catapult mang tính cơ động cao có bánh xe có thể dễ dàng di chuyển, thể tích nhỏ hơn Trebuchet. Và tính hiệu quả thì không hề kém Trebuchet trong thời điểm này. Vì tương thành của Giao Chỉ và phần lớn ở Trung Hoa đều là thành đất. Mà thành đất thì chả cần đến Trebuchet nặng nề làm gì cho đau đầu, Catapult cũng có thể dễ dàng công phá. Trebuchet có thể bắn đá đi xa 300m và đứng ngoài phạm vi công kích cảu cung thủ đối phương, trong khi đó chỉ có thể bắn tầm 150m- 180m tùy từng loại, nhưng như vậy cũng cũng quá đủ rồi vì cung Hán tầm xa chỉ dưới 100m mà thôi. 2500 người cùng lao động ngày đêm để tạo ra vài cổ máy ném đá Catapult thì không quá khó khăn chút nào. Nhưng điểm quan trọng ở đây chính là Nguyên Quốc đã cải tiến hoàn toàn cỗ máy ném đá Catapult thời trung cổ. Điểm cải tạo đầu tiên là ở hai cánh đà của Catapult hắn cho vào hệ thống ròng rọc như cánh cung trợ lực mà cung thủ Đại Việt đang dùng, chính vì thế lực bắn của cái Catapult này cực mạnh nhưng ại giảm đi công sức lấy đà đến 35%. Cải thiến thứ hai vẫn là cánh đà của Captapult, cánh đà này nếu hình dung thì chính là cánh nỏ phóng đại lên àm thôi. Luồng, tre giờ đây không quá thích hợp để làm cánh đà nữa rồi vì chúng quá nhỏ bé dù có dán lại bằng keo cũng không thể tốt như một số nhiên liệu khác mà điển hình là gỗ Thanh Tùng. Cái loại gỗ này chuyên để chế tạo Longbow của Anh Quốc những năm thế kỉ 15 vậy nên khá thích hợp để làm cánh đà cho Catapult. Vốn dĩ Nguyên Quốc dự định sé làm cánh đà bởi một thanh gỗ duy nhất mà hắn dán vài thanh gỗ mỏng hơn lại với nhau cùng với một số lớp Luồng già. Điều này sẽ tạo nên một cánh đà phức hợp với lực đàn hồi lớn hơn nhiều. Nhưng đồng thời cũng làm giảm độ bền của cánh đà trong điều kiện thời tiết Giao Châu. Mà chế tạo cũng phức tạp tốn thời gian nên hắn quyết định chơi bằng một cánh gỗ Thanh Tùng duy nhất. Đây là sự cân nhắc giữa tiền lợi và hiệu năng, đôi lúc phải hi sinh một chút gì đó. Cải tiến thứ ba đó là về hệ thống kéo cánh tay đòn của Catapult thì với tư duy của người hiện đại Nguyên Quốc đã thiết kế hệ thống kéo bằng các luông quay bánh răng và ròng rọc bằng đồng khiến việc lấy đà khá nhẹ nhàng đối vơi chỉ hai người đang ông trưởng thành. Đây là lợi thế của một gã thợ rèn hiện đại, với đôi bàn tay tài hoa hắn có thể chế ra bất kì vật kim loại nào mà hắn muốn. Đồng thời Nguyên Quốc cũng hướng dẫn các thợ đúc đồng thuộc Hậu cần doanh tổ chức chế tạo hệ thống bánh đà này theo dây truyền. Kể từ một tuần sau khi quân Đại Việt chiếm lĩnh ngoại vi Khúc Dương thì chiếc Catapult đầu tiên đã ra đời với hệ thống trục bánh xe bằng đồng có vòng bi đồng khiến cho việc di truyển trơn tru hơn rất nhiều khi lại được bôi thêm dầu. Tất nhiên những mỏ than liên tục cung cấp than để khu quân doanh đốt thành nhựa than rồi chiết xuất ra dầu phục vụ cho rất nhiều hoạt động quân sự. Tất nhiên vòng bi và ổ trục đồng rất dễ bị mài mòn nhưng Nguyên Quốc không còn cách nào khác. Mòn thì chế lại thôi, sắt thép giờ cực khan hiếm hắn còn phải tận dụng chúng cho những việc quan trọng hơn. Công việc chế tạo Catapult vẫn cứ thế mà tiến hành theo dây truyền. Đã có chiếc đầu tiên làm mẫu thì các binh sĩ thuộc hậu càn doanh và người dân cùng nhau tham gia chế tác không quá khó khăn. Nguyên Quốc phải gián đoạn công việc tham gia chế tạo Catapult của bản thân vì một vấn đề quan trọng hơn liên quan đến sự hùng mạnh của Đại Việt sau này. Xoay qua xoay lại thì vấn đề gì quan trọng nhất thời buổi này? vuc khí hiện đại hơn? chiến thuật quân sự tiên tiến hơn? hay các tướng lĩnh hung mạnh hơn? Tất cả đều không phải… thời buổi này quan trọng nhất là lương thực. Có lương thực ngươi có tất cả, có lương mới có nhân lực, có người thì mới có quân đội và có sản xuất , có sản xuất thì mới có vũ khí, mới có lương thực mới rồi từ đó lại có thêm nhân lực. Quay đi quẩn lại thì cái vòng luẩn quẩn này vẫn chỉ là lương thực mà thôi. Cớ sao tam quốc loạn một bầy, thằng đánh nơi này kẻ chiếm nơi kia. Chẳng qua vì cướp người, cướp lương để đẻ ra năng lực sản xuất mới, từ đó lại sinh ra tân quân mà bành trướng thế lực. Nói dông nói dài thi quay lại Nguyên Quốc , hắn hai mắt đang sáng chưng như đèn pha ô tô mà nhìn một thằng bé Việt tộc bẩn như ma lem đang găm một cái củ gì đấy rất ngon lành trên tay. Nguyên Quốc rat ay cướp đoạt, và dĩ nhiên có áp bức sẽ có đấu tranh, thằng bé này đấu tranh bằng cách khóc nhè. Hắn gào to tướng cả một vùng. Kinh động bà con Việt cổ đang công tác quanh đó, mọi người đều xúm lại xem chuyện gì xảy ra. Tính tò mò thì thời nào chẳng có, Việt hay Hán, cổ hay hiện đại nhưng nhau cả. Thằng bé thì đang bù lu lù loa kể tội Nguyên Quốc ăn cướp đồ ăn của hắn cho bố mẹ nghe, quả này thằng bá ma lem Việt cổ tộc quyết làm cách mạng chống áp bức đến cùng. Thế nhưng cách mạng bị bẻ gãy không thương tiếc bởi một cái gõ đầu cực đau cảu ba hắn. Nói đùa gì chứ người nông dân Lạc Việt này nhật ra kẻ đánh cướp thức ăn cảu con trai hắn là thủ lĩnh cảu bộ tộc Đại Việt cường đại. Chính người này đã mang lại niềm tin, hi vọng sống cho toàn bộ dân Lạc - Âu ở đây. Chính ngài đã cung cấp thức ăn cho cả ngàn người. Chả lý do gì thủ lĩnh lại đi cướp cái đồ ăn bé tí của ngươi. Càng nghĩ người đàn ông Lacn Việt tộc càng giận dữ. Thằng oắt con này mà làm thủ lĩnh giận lên thì phiền to cho cả nhà, thế là hắn lại chuẩn bị kí đầu cho tên oắn con thủ lĩnh cuộc "tân cách mạng" này thêm mấy cái. Nhưng bỗng nhiên bàn tay thô to của hắn không thể nhúc nhích, nó bị một thứ như kềm sắt giữ chặt lại mà không thể nào nhúc nhích. - Ngươi không được đánh hắn, hắn là công thần của cả bộ lạc Đại Việt . Chính hắn sẽ mang lại tương lai cho Đại Việt chúng ta… từ này cả nhà ngươi đổi qua họ Lý của ta… nhóc con ta ban cho ngươi họ Lý tên Thần Nông…
Chương 34: Vô trung sinh hữu Mời đọc Câu nói này của Nguyên Quốc làm toàn bộ người dân cũng như binh sĩ tại nơi này đều ngớ người ra, thằng nhóc hỉ mũi chưa sạch, làm gì mà được thành công thần, nhận được ban họ cũng như ban tên của Chủ Công. Trong khi mọi người đang nghơ ngác thì Nguyên Quốc giơ lên cái củ bé tí trong tay mình. - Các ngươi biết đây là gì không? - Dạ thưa đây là một củ dại mọc trong rừng, ăn khá ngạt nhưng đỡ đói. Nhưng thứ này không có hạt nên không hiểu nên reo trồng ra sao, cuối cùng là lúc nào mất đói quá thì vào rừng nhặt ăn ạ…. Nguyên Quốc lắc đầu, đây chính là một loại khoai lang dại. Trong sửa sách có ghi Khoai lang xuất xứ là từ Nam Mỹ và được truyền vào Việt Nam vào thế kỉ 16 từ Phúc Kiến Trung quốc. Nhưng Nguyên Quốc cũng nhớ lại có một báo cáo khoa học mang tính xác thực rất cao đó là khoai lang và sắn xuất xứ từ Đông Nam Á ( Bài nghiên cứu này có thật tối qua ta động để lấy tư liệu cho chương này mà rồi giờ mất tiệt không tìm ra được, để tối về nhà tìm lại), sau đó không hiểu bằng đường biển mà chi chuyển một dọc các hải đảo rồi được dân Nam Mĩ phát triển. Trong khi đó tạo Đông Nam Á với sự phát triển của lúa nước đã làm mai một giống cây thần kì này, người Đông Nam Á không hề đào tạo giống cây này và một lần nữa vào thế kỉ 16 những thứ như khoai Sắn lại trở về với đất mẹ Đông Nam Á của nó - Các ngươi không hiểu, cái này Khoai Lang, trồng bằng cách để củ này mầm, hoặc bằng dây khoai… rất dễ trồng… mùa đông cũng có thể sống được… đất đồi cũng có thể trồng bình thường….không hề ảnh hưởng đến trồng lúa. Theo lệnh của ta 1000 người bủa vào rừng tìm tất cả các loại cây củ như vậy và gầng giống như thế này về đây cho ta…. Nguyên Quốc tìm ra một hướng đi mới cho Lương thực, đó chính là những giống củ chịu lạnh vào mùa đông và không đòi hỏi quá nhiều nước. Vì người dân Âu _Lạc lúc này chỉ trồng một vụ lúa Xuân - Hè mà thôi, những tháng còn lại vào Thu Đông là nhân lực nhàn rỗi, nếu có thêm các loại như khoai, sắn, khoai mỡ, kể cả là khoai Môn ( Củ ráy) cũng tốt. Chúng sẽ tạo nên một lượng lương thực cực rồi rào cho Đại Việt bộ lạc. Là tiền đề để hắn tranh bá thiên hạ. 2356 người dân và 723 binh lính đó là con số thống kê chính xác lúc này của Nguyên Quốc, từ hơn 2 ngàn dân đầu nhạp vào Đại Việt bộ tộc hắn chỉ tuyển ra gần 200 lính mà thôi. Phải biết cân bằng giữa quân đội và sản xuất. Không thể vơ cả nắm vào thành quân đội được. Thế nhưng hơn 500 trai tráng thuộc dân Lạc_ Âu hắn vẫn tiến hành trang bị vũ khí bằng đồng và huấn luyện qua về mặt quân sự. Để làm được điều này thì 30 lính thuộc hậu cần doanh phải tách ra và dẫn theo 200 dân cùng 100 nô lệ Dương Việt tộc quay lại khu quặng đồng mỏ để khai thác và chế tác các vũ khí và công cụ bằng Đồng. Nguyên Quốc không hề muốn tấn công Khúc Dương ngay lúc này, vì lương thực từ khu mỏ Muối đã được vận chuyển đến quân doanh, và 200 dân ở khu mỏ muối cũng đã tậo trung lại tại khu đồng bằng lân cận Khúc Dương mà sinh hoạt. Lương thực là đủ để mọi người cầm cự đến 2 tuần nữa. Mỗi ngày trôi qua thì sức éo đến với quân thủ thành càng lớn vì Nguyên Quốc đang thực hiện kế " Vô trung sinh hữu" ( Không có mà thành có) và đang giảng giải ảo diệu trong đó cho các sĩ quan. Thẻ tre mà Nguyên Quốc gửi cho Lục Kiên trong thành Khúc Dương có đoạn " Chúng ta 3 ngàn quân chỉ là tiên phong, trong 2 tuần tới quân số sẽ là 2 vạn, nếu ngươi không đầu hàng đến lúc phá thành thì sẽ là kẻ bị trảm đầu tiên, nếu khôn ngoan đầu hàng lúc này ta thả cho một chiếc thuyền mà về Đông Ngô ". Và để chứng thực điều này hàng đêm Nguyên Quốc đều thực hiện một việc đó là quân sĩ cũng như dân thướng mỗi nười cầm một chiếc cây dài trên đó gắn 3 đến 4 ngọn đuốc âm thầm ra khỏi trai bằng cửa Nam sai đó nhiễu một vòng rồi đốt đuốc lên mà đi về trại. Việc này tạo nên một giả tượng dường như có cả mấy ngàn quân tăng binh vậy. Buổi sang thì dân chúng như hồ hởi xay dựng mở rộng lều trại cho quân tăng viện. Cho đến giờ thì lều trại đã mở rộng cực to rồi, tất nhiên bên trong trống rỗng thôi. Chỉ có lính gác ở cổng là đầy đủ và nghiêm ngặt. Cộng thêm thám báo hoạt động hết mức để không cho thám báo quân địch đến gần doanh và phát hiện thì đây là một đòn tâm lý cực mạnh đánh vào những kẻ trong thành. Hết tuần thứ hai thì số máy bắn đá Catapult đã hoàn thành là 4 chiếc. Mặc dì nhiều người công tác nhưng tốc độ không thể nhanh được vì thợ chính chỉ có 70 người thuộc doanh hậu cần binh. Trong khi đó những người này còn phải chịu trách nhiệm chế tạo vũ khí mới cho nhóm binh sĩ mới ra nhập quân đội. Quan trọng là họ phải luyện một loại đao mới cho kị binh, vì Katana xem ra không thích hợp lắm với tác chiến trên lưng Trâu. Cái mà Nguyên Quốc chọn đó là lưỡi đao cong dùng một tay của kị binh Mông cổ. Với loại đao này thì việc chém đối phương trong khi tốc độ cao rất thuận tiện. Vì chém theo đường cong, cộng thêm sức phi nhanh của Kị Ngưu nên lực chém cực mạnh mà không làm cổ tay tổn thương. Đây chính là điểm mạnh của đao cong Mông Cổ vũ khí đã gây nên kinh hoàng cho những người sống trên 24 triệu Km vuông chiếm 16% diện tích thế giới. Tất nhiên bên cạnh đó còn có cung tên và kị mã, nhưng không thể phủ nhận sự cường đại của đao cong Mông cổ khi chúng kết hợp cùng kị binh. Số trâu bây giờ của Nguyên Quốc là 63 con vì những người dân Lạc Việt khi chạy nạn có đem theo trâu mà chạy vào rừng, tất nhiên đây không phải tất cả số trâu cảu họ. Số trâu nhiều nhất là bị quân Dương Việt bắt được mà đang nguôi nhốt trong Thành Khúc Dương. Nguyên Quốc quyết định tổ kiến 50 kị Trâu trước, số còn lại để phục vụ sản suất nông nghiệp, nếu trưng dụng hết trâu thì những người dân lao động sẽ vất vả hơn và năng suất không cao. Rồi chuyên gì đến cũng sẽ phải đến mà thôi, Nguyên Quốc sau khi tiến hành bước dọa nạt đầu tiên thì sẽ là bước thứ hai dọa nạt. Ngày hôm nay tổng cộng hơn 700 lính chính quy đi trước và 500 diễn viên quần chúng vác giáo dài mũi đồng theo sau trùng điệp tiến về cửa Nam Thành Khúc Dương. Nguyên Quốc quyết phải ép bonh Đông Ngô đầu hàng nhanh nhất có thể, vì Khoai lang, Khoai Mỡ và sắn đã tìm ra khá nhiều các dây thân cây đang được ươm trồng cả rồi. Giờ đã là cuối hè gần qua thu, chính là thời điểm thích hợp đẻ gieo trồng. Hắn muốn nhanh nhất chiếm Khúc Dương để tạo nên sự ổn định về mặt chính trị giúp cho bà con có điều kiện canh tác vụ Thu Đông này. Dẫn đầu đoàn quân dĩ nhiên là 50 kị Ngưu và thớt Voi chiến được bọc trong giáp mây kín kẽ có phủ da đàng hoàng. Ngồi trên đó là những kị sĩ với mũ đồng chỉ nhìn nhìn thấy mắt mà thôi, họ đang lăm lăm trong tay những thanh trường thương sang bóng. Để quảng cáo đội hình thì nhóm này đi đầu là hợp lý nhất. 250 trường thương binh chính qui cộng thêm 500 diễn viên trường thương đồng xếp cạnh nhau tạo nên một cung cảnh trường thương như rừng không sai, khung cảnh khá hoành tráng. Đi theo hai bên là 100 đao thuẫn thủ cùng 200 cung thủ binh hàng ngũ nghiêm ngặt mà tiến, phía xa xa có bụi bay mù mịt đó là hình ảnh của cả vạn đạn quân xuất kích. Binh sĩ trên thành như kiến bò chảo lửa. Bất kì ai nhìn thấy hoàn cảnh tuyệt vọng này cũng muốn bỏ thành mà chạy lấy người. Từ mấy hôm trước đã có lính Dương Việt lác đác theo cửa bắc mà dào binh. Chỉ cần vượt qua 300km là họ trở về quê mẹ rồi, khả năng sống sót cao hơn là ở lại ôm cái thành này chờ chết. Lính thám báo Đại Việt biết hết nhưng họ mắt nhắm mắt mở cho qua, đây là lệnh của Chủ thượng rồi. Tình hình này như bệnh dịch mà lan tràn toàn quân Dương Việt trong thành Khúc Dương, nói cho cùng họ từ rất nhiều bộ lạc Dương Việt mà ghép lại với nhau, thế nen nếu gặp thuận lợi thì rất tốt, nhưng nếu gặp khó khăn thì dễ mỗi người mỗi ý. Lính Dương việt có thể theo đường bộ mà ôm may mắn trốn về nhà. Nhưng lính và sĩ quan Đông Ngô thì chịu rồi, Lục Kiên biết chuyện Dương Việt quân đào ngũ nhưng hắn không dám làm căng. Lính Đông Ngô thân quân chính thức cảu hăn chỉ có 100. Nếu làm căng có binh biến thì người đầu tiên chết sẽ là hắn đấy. Giờ phú này Lục Kiên đang tái mét mặt đứng trên lâu thành mà nhìn 4 cỗ máy bắn đá phía xa. Hắn chả lạ gì máy bắn đá, trận Xích bích cũng là dùng máy bắn đá àm bắn dầu trẩu lên thuyền quân Tào Ngụy đây thôi. Nhưng đó chỉ là những cỗ máy bắn đá sơ khai. Chỉ nhìn thoáng qua sự phức tạp không thể lí giải của 4 cỗ máy to lớn này thì Lục Kiên cũng biết chúng sẽ cường đại hơn cả máy bắn đá Đông Ngô . Tòa thành đất cao 4m này chịu được mấy hồi công kích thì hắn không dám chắc. ( bổ xung cờ Đại Việt lúc này nhé : https://www.facebook.com/photo.php?...400.1073741827.100024025355502&type=3&theater)